Sửa đổi toàn diện để nâng cao hiệu quả quản lý nợ công
Theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Quốc Phương, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý nợ công tập trung điều chỉnh các nội dung liên quan đến phân cấp thẩm quyền của Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về việc đàm phán, ký, phê duyệt, phê chuẩn và sửa đổi, bổ sung, gia hạn các điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước và nhân danh Chính phủ về vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài.
Toàn cảnh phiên thảo luận. Ảnh: VPQH
Dự thảo quy định phân cấp cho Thủ tướng Chính phủ quyết định hạn mức vay về cho vay lại và hạn mức bảo lãnh Chính phủ hằng năm, gắn liền với việc phê duyệt kế hoạch vay, trả nợ công. Cách làm này nhằm góp phần rút ngắn thủ tục phê duyệt, bảo đảm tiến độ triển khai, đồng thời bổ sung nhiệm vụ của Bộ Tài chính để tăng cường linh hoạt trong quá trình thực thi, cắt giảm thủ tục hành chính.
Đối với các quy định này, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, Thường trực Uỷ ban cơ bản thống nhất với nội dung Dự thảo, song đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát nhằm bảo đảm nguyên tắc phân cấp, phân quyền phải đi đôi với kiểm soát, khách quan, minh bạch và nâng cao hiệu quả trong huy động, sử dụng vốn vay.
Theo cơ quan thẩm tra, Dự thảo Luật lần này sửa đổi toàn diện Điều 29 của Luật hiện hành về trình tự, thủ tục vay ODA và vay ưu đãi nước ngoài. Thường trực Uỷ ban Kinh tế và Tài chính cơ bản thống nhất với chủ trương sửa đổi để đơn giản hóa thủ tục, tháo gỡ vướng mắc trong giải ngân vốn ODA, song đề nghị quy định theo hướng Luật chỉ nêu khung, giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết.
Bên cạnh đó, Điều 29 của Dự thảo có bổ sung quy định “các trường hợp áp dụng trình tự, thủ tục đặc thù” khi thực hiện vay ODA và vay ưu đãi nước ngoài. Đây là nội dung mới phát sinh sau khi Bộ Tư pháp thẩm định, song tại Tờ trình của Chính phủ chưa nêu rõ. Do vậy, Thường trực Uỷ ban Kinh tế và Tài chính đề nghị cơ quan soạn thảo cần báo cáo giải trình, làm rõ thêm căn cứ và phạm vi áp dụng.
Đồng tình quan điểm của cơ quan thẩm tra, Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng cho rằng: Điều 29 chỉ nên điều chỉnh các quy định cơ bản về thẩm quyền và trình tự, thủ tục, còn chi tiết cụ thể cần giao Chính phủ và Bộ Tài chính hướng dẫn để bảo đảm linh hoạt.
Ông cũng đề nghị phải làm rõ khái niệm giữa vay ODA và vay ưu đãi, bởi khi hai Luật Quản lý nợ công và Luật Điều ước quốc tế đã được tách bạch thì các điều ước quốc tế về vay ODA, vay ưu đãi vẫn thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Điều ước quốc tế. Do đó, cần xác định cụ thể quy trình, thủ tục đối với các trường hợp điều ước quốc tế có nội dung khác hoặc chưa được quy định trong Luật, Nghị quyết của Quốc hội, hoặc trái với Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng cho ý kiến tại phiên thảo luận. Ảnh: VPQH
Chủ nhiệm Hoàng Thanh Tùng nêu vấn đề: “Khi việc ký kết và phê chuẩn các điều ước quốc tế này cần thực hiện sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì quy trình, thủ tục đàm phán, ký kết, xin ý kiến Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sẽ được thực hiện như thế nào? Đây là nội dung cần được quy định rõ trong Dự thảo Luật”.
Bảo đảm đồng bộ pháp lý và an toàn nợ công quốc gia
Theo Tờ trình của Chính phủ, Dự thảo mở rộng điều kiện tiếp cận vốn vay ODA và vay ưu đãi đối với các đơn vị sự nghiệp công lập “tự bảo đảm chi thường xuyên và một phần chi đầu tư” tại khoản 2 Điều 36, đồng thời mở rộng phạm vi áp dụng cơ chế ủy quyền cho vay lại không chịu rủi ro tín dụng đối với các ngân hàng thương mại.
Đối với nội dung này, Thường trực Uỷ ban Kinh tế và Tài chính cơ bản nhất trí, nhưng Chủ nhiệm Phan Văn Mãi lưu ý: “Việc không chịu rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại có thể dẫn đến cho vay thiếu trọng tâm, trọng điểm, cơ quan cho vay lại dễ lơ là, thiếu trách nhiệm trong giám sát. Do đó, cần đánh giá kỹ rủi ro để đảm bảo an toàn nợ công”.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi trình bày Báo cáo Thẩm tra sơ bộ Dự án Luật. Ảnh: VPQH
Với phương thức cho vay lại, khoản 3 Điều 35 được sửa đổi theo hướng khoản vay, khoản cho vay lại vốn ODA, vay ưu đãi nước ngoài của Chính phủ không tính vào tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng hoặc người có liên quan tại tổ chức tín dụng được ủy quyền cho vay lại. Tuy nhiên, Chủ nhiệm Hoàng Thanh Tùng cho rằng cần cân nhắc kỹ, vì tổng mức dư nợ cấp tín dụng là chỉ tiêu quan trọng để kiểm soát an toàn tín dụng và giới hạn rủi ro.
Ông viện dẫn, tại khoản 3 Điều 136 của Luật Các tổ chức tín dụng đã quy định không tính vào tổng mức dư nợ đối với khoản vay từ nguồn vốn ủy thác mà ngân hàng không chịu rủi ro, trong khi khoản 3 Điều 35 của Dự thảo lại quy định ngân hàng thực hiện cho vay lại đối với doanh nghiệp chịu toàn bộ rủi ro tín dụng. “Nếu quy định như vậy là chưa phù hợp, cần được xem xét thống nhất để tránh chồng chéo”, ông nói.
Liên quan đến cơ chế cấp phát, tại điểm e khoản 2 Điều 36 Dự thảo quy định: “Trường hợp đơn vị sự nghiệp công lập không đáp ứng điều kiện được vay lại quy định tại điểm a khoản 2 Điều này, cơ quan quy định tại khoản 1 Điều 29 báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định áp dụng cơ chế tài chính cấp phát từ ngân sách nhà nước cho chương trình”. Có ý kiến cho rằng, nếu đơn vị sự nghiệp công lập không đủ điều kiện vay lại thì không thuộc đối tượng vay lại, do đó không nhất thiết chuyển sang cơ chế cấp phát từ ngân sách.
Về cơ chế cấp phát, cho vay lại giữa Trung ương và địa phương, Tờ trình của Chính phủ nêu rõ Dự thảo đã bổ sung quy định cho phép “các địa phương không nhận bổ sung cân đối từ ngân sách Trung ương được vay lại” và “cấp phát toàn bộ vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài của Chính phủ đối với các địa phương chưa đảm bảo cân đối 100% thu - chi ngân sách nhà nước”.
Thường trực Uỷ ban Kinh tế và Tài chính cho rằng, nếu quy định như trên thì sẽ có khoảng 28 - 30 địa phương được cấp phát toàn bộ vốn vay, đồng nghĩa với việc khuyến khích vay vốn, tạo gánh nặng cho ngân sách Trung ương. “Vì vậy, đa số ý kiến đề nghị giữ quy định hiện hành, giao Chính phủ quyết định cụ thể phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội từng thời kỳ”, Chủ nhiệm Phan Văn Mãi nêu rõ.
Phát biểu tại Phiên thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải nhấn mạnh, việc sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý nợ công phải thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng, tuân thủ Hiến pháp, bảo đảm đồng bộ, thống nhất với các luật có liên quan như Luật Ngân sách nhà nước, Luật Điều ước quốc tế và Luật Các tổ chức tín dụng.
Phó Chủ tịch Quốc hội yêu cầu cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát kỹ lưỡng để bảo đảm Dự thảo đáp ứng mục tiêu huy động nguồn lực, phục vụ mục tiêu tăng trưởng hai con số trong giai đoạn tới, đồng thời khắc phục những vướng mắc hiện nay trong huy động, vay và trả nợ công.
Ông cũng đề nghị thực hiện nghiêm các quy định về kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong xây dựng pháp luật theo tinh thần Nghị quyết số 27 và Quy định số 178 của Bộ Chính trị.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải phát biểu tại thảo luận. Ảnh: VPQH
Đối với một số vấn đề cụ thể, Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị nghiên cứu phương án giao Bộ Tài chính phê duyệt đề xuất khoản vay căn cứ kế hoạch vay nợ hàng năm được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; đánh giá kỹ tác động của việc cho phép các địa phương nhận bổ sung từ ngân sách Trung ương được vay lại, cũng như việc cấp phát vốn vay ODA và vay ưu đãi nước ngoài.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải yêu cầu rà soát, hoàn thiện quy định về điều kiện, phương thức cho vay lại, hạn mức bảo lãnh Chính phủ để bảo đảm hiệu quả huy động vốn vay, kiểm soát chặt chẽ rủi ro. Ông lưu ý: “Cần bổ sung quy định đánh giá hệ quả của việc cho phép ngân hàng thương mại cho vay lại đối với đơn vị sự nghiệp công lập nhưng không chịu rủi ro tín dụng”.
Đồng thời, phải xác định rõ nguyên tắc “một việc chỉ giao cho một cơ quan”, làm rõ trách nhiệm thẩm định, quyết định cấp bảo lãnh thuộc Bộ Tài chính. Bộ Tài chính với chức năng được giao thống nhất quản lý nhà nước về nợ công thì phải chịu trách nhiệm chính trong thẩm định và cấp bảo lãnh Chính phủ.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải đề nghị Chính phủ chỉ đạo cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan tiếp thu đầy đủ ý kiến của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, của cơ quan thẩm tra, để hoàn thiện hồ sơ Dự án Luật, trình Quốc hội xem xét, quyết định trong kỳ họp tới.