Chủ động thực thi EPR
Triển khai thực hiện quy định trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) là cách tiếp cận của chính sách môi trường phổ biến trên thế giới đã được thực hành ở nhiều quốc gia và được đánh giá là công cụ rất hiệu quả trong quản lý rác thải.
EPR không chỉ là trách nhiệm mà còn là cơ hội để các doanh nghiệp phát triển bền vững hơn. Việc thực hiện EPR sẽ giúp doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của đối tác, từ đó có cơ hội tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Việt Nam là một trong những quốc gia Đông Nam Á đầu tiên áp dụng công cụ này. Đây vừa là cơ hội, đồng thời cũng là thách thức bởi các quy định, quy trình mới luôn cần thời gian để triển khai và thực thi một cách thông suốt và hiệu quả.
Ông Nguyễn Thành Yên, Phó Trưởng phòng Chính sách pháp chế, Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường). Ảnh: Nguyễn Thành
Chia sẻ về xu hướng phát triển bền vững hiện nay, đặc biệt là bối cảnh nước ta đang quyết liệt thực hiện hóa các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường, cũng như việc thực thi EPR của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam nói riêng. Ông Nguyễn Thành Yên, Phó Trưởng phòng Chính sách pháp chế, Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng, phát triển bền vững giờ đây không còn là một khẩu hiệu mang tính hình thức, mà đã trở thành chiến lược sống còn của doanh nghiệp trong hành trình chinh phục thị trường và xây dựng giá trị lâu dài.
“Các tiêu chuẩn ESG đang dần được tích hợp vào chiến lược kinh doanh như một yêu cầu tất yếu từ thị trường, giới đầu tư và người tiêu dùng ngày càng có ý thức cao về trách nhiệm xã hội”, ông Yên cho biết.
Trong bối cảnh đó, việc thực thi EPR không chỉ là một nghĩa vụ pháp lý được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường, mà còn là lời cam kết mạnh mẽ của doanh nghiệp đối với mục tiêu phát triển bền vững.
Chủ động thực hiện EPR giúp doanh nghiệp không chỉ tuân thủ pháp luật, mà còn mở cánh cửa tiếp cận các nguồn vốn xanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và uy tín thương hiệu trên cả thị trường nội địa lẫn quốc tế. Đây chính là tấm “giấy thông hành” để doanh nghiệp vững bước trong thời đại kinh tế tuần hoàn và tiêu dùng bền vững đang ngày càng lan rộng toàn cầu.
Thông tin thêm về việc Việt Nam thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, theo ông Yên, hiện nay, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất không chỉ được đề cập như một định hướng chính sách, mà đã được luật hóa và cụ thể hóa rõ ràng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã dành hẳn Điều 54 và Điều 55 để quy định về EPR, xem đây là một trong những trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xanh và bền vững.
Theo quy định của pháp luật, EPR tại Việt Nam gồm hai nội dung chính là trách nhiệm tái chế sản phẩm, bao bì và trách nhiệm xử lý chất thải. Hai nhóm nhiệm vụ này được gọi chung là EPR đây là một cách tiếp cận tổng thể nhằm chuyển dịch gánh nặng xử lý môi trường từ Nhà nước sang khu vực sản xuất, hướng đến mô hình kinh tế tuần hoàn.
Khi môi trường là tiêu chí sống còn, EPR trở thành “chìa khóa” giúp doanh nghiệp công nghiệp nâng cao cạnh tranh. Ảnh minh họa
Để triển khai Luật vào thực tiễn, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, sau đó được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 05/2025/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/1/2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường.
Cùng với đó là hệ thống văn bản hướng dẫn chi tiết, trong đó nổi bật là Thông tư 02/2022 nay đã được bổ sung, cập nhật bởi Thông tư 07/2025/TT-BTNMT. Các quy định này đã hình thành hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh, giúp doanh nghiệp nắm rõ lộ trình và cách thức thực hiện EPR.
Ngành Công Thương đưa EPR đi vào thực chất
Chia sẻ về quá trình thực thi Luật bảo vệ môi trường đối với ngành Công Thương, ông Phạm Sinh Thành, Phó Trưởng phòng Phòng Môi trường Công Thương, Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương) cho hay, trước khi Luật Bảo vệ môi trường 2020 được ban hành và chính thức có hiệu lực, cách tiếp cận trong công tác bảo vệ môi trường tại Việt Nam chủ yếu dựa trên mô hình phân tán với sự tham gia tích cực của các bộ quản lý ngành như Bộ Công Thương, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Xây dựng (trước khi sáp nhập), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn… Trong đó, các bộ, ngành đóng vai trò chủ lực trong việc giảm phát thải tại nguồn, trong khi Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) chủ yếu đảm trách việc quản lý môi trường bên ngoài hàng rào nhà máy.
Tuy nhiên, theo ông Thành, từ khi Luật Bảo vệ môi trường 2020 có hiệu lực, vai trò quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đã có sự chuyển dịch căn bản, thay vì tiếp cận phân tán, Chính phủ thống nhất một đầu mối giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì điều phối, xây dựng và ban hành chính sách.
Ông Phạm Sinh Thành, Phó Trưởng phòng Phòng Môi trường Công Thương, Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương). Ảnh: Nguyễn Thành
“Trong quá trình xây dựng các chính sách quan trọng về EPR như Nghị định 08/2022/NĐ-CP, Nghị định 05/2025/NĐ-CP (sửa đổi) và hiện tại là dự thảo Nghị định riêng về EPR đang được Bộ Nông nghiệp và Môi trường xây dựng, Bộ Công Thương đã và đang tích cực tham gia góp ý, phản biện, đề xuất cơ chế phù hợp với đặc thù ngành công nghiệp, thương mại”, ông Thành thông tin.
Cũng theo Phó Trưởng phòng Phòng Môi trường Công Thương, tuy không còn là cơ quan ban hành chính sách, vai trò thực thi chính sách môi trường của Bộ Công Thương vẫn đóng vai trò then chốt, đặc biệt trong lĩnh vực kiểm soát chất thải tại nguồn, thúc đẩy sản xuất sạch và sử dụng tài nguyên hiệu quả.
Ngoài ra, Bộ Công Thương đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn và tổ chức triển khai hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tuyên truyền chính sách EPR, thúc đẩy truyền thông về tái chế, tuần hoàn, nâng cao năng lực thực hiện EPR cho các tập đoàn, tổng công ty và doanh nghiệp ngành Công Thương.
“Sự dịch chuyển vai trò từ ban hành chính sách sang thực thi chính sách không làm giảm tầm quan trọng của các bộ ngành như Bộ Công Thương. Ngược lại, chính quá trình thực thi tại cơ sở lại là mắt xích quan trọng quyết định thành công của hệ thống EPR và quá trình chuyển đổi xanh của Việt Nam”, ông Thành nhấn mạnh.
Thông tin thêm về những chính sách chung và các quy định riêng của ngành Công Thương để hỗ trợ cho các doanh nghiệp thực thi hiệu quả các quy định của pháp luật trong công tác bảo vệ môi trường và đảm bảo các quy định trong tái chế chất thải, thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất. Ông Thành cho hay, một trong những ví dụ điển hình, rõ nét nhất thể hiện vai trò chủ động và thực chất của Bộ Công Thương trong thúc đẩy tái chế, tái sử dụng chất thải công nghiệp chính là tái sử dụng tro xỉ từ các nhà máy nhiệt điện, hóa chất và phân bón, đây từng là một bài toán hóc búa trong giai đoạn 2017-2018.
“Thời điểm đó, hàng triệu tấn tro, xỉ phát sinh mỗi năm trở thành gánh nặng môi trường, nằm chất đống như rác thải. Nhưng để biến lượng chất thải công nghiệp khổng lồ này thành nguồn nguyên liệu có giá trị, vấn đề không chỉ nằm ở kỹ thuật mà còn là nút thắt chính sách”, ông Thành chỉ ra.
Bộ Công Thương đã chủ động tham mưu và đề xuất lên Chính phủ, kiến nghị cho phép công nhận tro xỉ, thạch cao từ các nhà máy nếu đạt chuẩn kỹ thuật (hợp chuẩn, hợp quy) thì được xem là hàng hóa vật liệu xây dựng. Đề xuất này nhanh chóng được Chính phủ đồng thuận, tạo cơ sở để Bộ Xây dựng (cũ) ban hành quy định chính thức.
Chính sách mở khóa này đã trở thành tiền đề quan trọng được pháp điển hóa tại Nghị định 08/2022/NĐ-CP, theo đó, nếu chất thải công nghiệp được chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy thì được coi là nguyên liệu sản xuất. Đây chính là nền móng pháp lý cốt lõi cho EPR, bởi không thể triển khai trách nhiệm tái chế nếu vật liệu đầu vào vẫn bị rào cản về pháp lý.
Công nghiệp môi trường không chỉ là động lực kinh tế mới, mà còn là chìa khóa cho tương lai bền vững của đất nước. Việc phát triển công nghiệp môi trường đòi hỏi sự kết nối chặt chẽ với các ngành sản xuất, thu gom, xử lý chất thải, tái chế cho đến đẩy mạnh sử dụng sản phẩm tái chế.