Khi tro xỉ trở thành tài nguyên
Theo ước tính, mỗi năm các nhà máy nhiệt điện Việt Nam thải ra khoảng 10 triệu tấn tro xỉ, con số này vẫn tiếp tục tăng. Dù tiềm năng lớn, việc tái chế tro xỉ vẫn gặp nhiều trở ngại do thiếu hạ tầng xử lý, công nghệ đồng bộ và tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe trong ngành xây dựng hay chi phí logistics lớn..
Sản xuất bê tông khí chưng áp tại Công ty CP Sông Đà Cao Cường
Bài toán biến tro xỉ thành sản phẩm thân thiện môi trường đòi hỏi một tư duy mới và những mô hình tiên phong, nơi các doanh nghiệp không chỉ xử lý chất thải mà còn biến chúng thành giá trị kinh tế tuần hoàn thực sự.
Trong bức tranh đó, Công ty CP Sông Đà Cao Cường là một điển hình tiên phong, khi biến thứ từng bị coi là “phế thải” thành các sản phẩm vật liệu xây dựng thân thiện môi trường, xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Ông Kiều Văn Mát, Chủ tịch HĐQT Công ty, chia sẻ: “Chúng tôi luôn tin rằng nếu biết cách tiếp cận đúng, mọi thứ đều có thể trở thành tài nguyên. Tro xỉ không còn là gánh nặng, mà là nguồn nguyên liệu đầu vào quý giá cho ngành vật liệu xây dựng hiện đại.”
Với tầm nhìn đó, Sông Đà Cao Cường đã phát triển sản phẩm bê tông khí chưng áp (AAC), loại vật liệu xây dựng xanh, nhẹ, cách âm, cách nhiệt tốt và giảm đáng kể phát thải carbon so với vật liệu truyền thống.
Ông Kiều Văn Mát - Chủ tịch HĐQT Công ty CP Sông Đà Cao Cường
Trong mỗi viên gạch AAC, có tới 70% là tro bay được thu hồi từ các nhà máy nhiệt điện như Phả Lại, Uông Bí, Hải Phòng; thêm 5% thạch cao từ các nhà máy hóa chất và 25% xi măng, vôi…. Những nguyên liệu này được xử lý, sàng lọc nghiêm ngặt, tạo nên sản phẩm có độ bền nén cao, thân thiện môi trường, đồng thời giúp giảm đáng kể lượng chất thải rắn chôn lấp, một bài toán nan giải của ngành năng lượng.
Về giá thành, theo ông Mát, bê tông khí chưng áp không đắt hơn vật liệu truyền thống. Trong cơ cấu chi phí xây dựng, vật liệu hoàn thiện chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ. Đặc biệt, nếu áp dụng giải pháp đồng bộ từ khâu thiết kế, tổng chi phí của công trình có thể giảm khoảng 30% so với sử dụng vật liệu truyền thống, nhờ hiệu quả năng lượng và tốc độ thi công nhanh vượt trội.
Dấu ấn VAS – khi doanh nghiệp thay đổi từ tư duy đến công nghệ
Bước ngoặt lớn của Sông Đà Cao Cường đến từ việc tham gia Chương trình Thỏa thuận tự nguyện về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (VAS), thuộc Hợp phần 3 của Chương trình Hợp tác Năng lượng Việt Nam – Đan Mạch giai đoạn 2020–2025 (DEPP3) do Bộ Công Thương và Cục Năng lượng Đan Mạch triển khai.
Theo ông Kiều Văn Mát, “VAS không chỉ mang lại lợi ích hữu hình như tiết kiệm chi phí, tối ưu năng lượng, mà còn đem đến giá trị vô hình quan trọng hơn, đó là thay đổi tư duy quản trị và đầu tư công nghệ.”
Dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia quốc tế, doanh nghiệp đã tiến hành rà soát toàn bộ quy trình sản xuất, phát hiện những điểm lãng phí năng lượng, từ đó áp dụng các giải pháp cải tiến kỹ thuật.
Cụ thể, các giải pháp tập trung vào việc tận dụng nhiệt thừa và tối ưu hóa hệ thống hơi nước trong dây chuyền sản xuất tro bay của nhà máy.
TS Nguyễn Xuân Quang – Giám đốc Công ty CP Môi trường năng lượng Enervi trình bày các giải pháp sử dụng năng lượng, nguyên nhiên vật liệu tối ưu cho Nhà máy của Công ty CP Sông Đà Cao Cường với sự tham dự của Đại sứ quán Đức tại Việt Nam, Dự án DEEP 3, Sở Công Thương TP Hải Phòng
Là đơn vị tư vấn các giải pháp kỹ thuật, TS Nguyễn Xuân Quang – Giám đốc Công ty CP Môi trường năng lượng Enervi Việt Nam cho biết: Chúng tôi đưa ra 3 giải pháp chính. Thứ nhất, cải thiện hệ thống hơi nước thông qua việc lắp đặt bình flash (bình búp hơi) và bình khử khí, giúp thu hồi nước ngưng và tận dụng nhiệt thừa từ quá trình ngưng tụ. Thứ hai, dự án lắp đặt bộ hâm nước (economizer) cho lò sấy tro bay nhằm thu hồi nhiệt thải từ khói thải có nhiệt độ cao (120–130°C) trước khi qua bộ lọc bụi túi. Thứ ba, tối ưu hóa chế độ đốt cháy của lò hơi thông qua việc điều chỉnh luồng gió cấp nhiên liệu và cải thiện phân bố nhiên liệu trong buồng đốt.
“Ba giải pháp trên sau khi hoàn thành sẽ giúp tiết kiệm tổng cộng khoảng 1.214 tấn sinh khối/năm, tương đương giảm phát thải 2.121 tấn CO₂ và tiết kiệm chi phí năng lượng khoảng 1,76 tỷ đồng mỗi năm. Ngoài lợi ích kinh tế, dự án còn góp phần tăng nguồn thu ngân sách thông qua thuế thu nhập doanh nghiệp, cải thiện môi trường làm việc, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên và thúc đẩy phát triển bền vững”- TS Nguyễn Xuân Quang cho hay.
Theo ông Kiều Văn Mát, đây là những yếu tố cốt lõi giúp doanh nghiệp phát triển bền vững, đồng thời tạo dựng hình ảnh một thương hiệu xanh, có trách nhiệm với xã hội. Các giải pháp đã giúp đội ngũ lãnh đạo và kỹ sư của công ty nâng cao năng lực tiếp cận công nghệ, tư duy đầu tư và đổi mới sáng tạo.
Ông Mát chia sẻ là sự “chuẩn hóa về tư duy”: “Trước đây, chúng tôi đầu tư dự án theo hướng truyền thống, nay mỗi dự án mới đều tích hợp yêu cầu tiết kiệm năng lượng ngay từ giai đoạn thiết kế. Các nhà cung cấp thiết bị, dù trong hay ngoài nước, đều phải đáp ứng tiêu chí này. Đó là cách để doanh nghiệp không chỉ tiết kiệm năng lượng, mà còn thể hiện tinh thần đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế.”
Những chuyển biến ấy đang được cụ thể hóa bằng dự án nhà máy sản xuất bê tông khí chưng áp mới quy mô 400.000 m³/năm, lớn nhất Việt Nam hiện nay đang được công ty đầu tư xây dựng, dự kiến hoàn thành đầu năm 2026.
“Tại đây, các giải pháp kỹ thuật tiết kiệm năng lượng, hệ thống nhiệt, điện, nước tuần hoàn sẽ được ứng dụng đồng bộ, đưa doanh nghiệp tiến gần hơn đến mô hình sản xuất xanh và kinh tế tuần hoàn toàn diện”- ông Mát khẳng định.
Vượt qua thách thức, khẳng định vị thế vật liệu xanh “Made in Vietnam”
Không có thành công nào dễ dàng, Công ty CP Sông Đà Cao Cường từng đối mặt với nhiều khó khăn, từ thiếu tiêu chuẩn kỹ thuật, thiếu cơ chế khuyến khích, đến thiếu thị trường tiêu thụ ổn định cho vật liệu xanh.
Ông Mát chia sẻ, trước đây, bê tông khí chưng áp (AAC) chưa được công nhận rộng rãi trong các công trình đầu tư công do thiếu hệ thống tiêu chuẩn quốc gia. Doanh nghiệp phải tự nghiên cứu, xây dựng tiêu chuẩn cơ sở, rồi đề xuất cơ quan quản lý ban hành thành tiêu chuẩn quốc gia (TCVN), một quá trình tốn kém và kéo dài nhiều năm.
Tuy nhiên, kiên trì và niềm tin vào giá trị xanh đã giúp họ vượt qua. Khi đại dịch Covid-19 qua đi, chuỗi cung ứng ổn định trở lại, sản phẩm AAC nhanh chóng được thị trường đón nhận, trở thành giải pháp vật liệu của thời kỳ chuyển đổi xanh.
Hiện tại, nhà máy của công ty hoạt động với công suất 200.000 m³/năm nhưng luôn “cháy hàng”, sản phẩm được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sang Philippines, Singapore, Đài Loan…
Hiện sản phẩm bê tông khí chưng áp của công ty sản xuất không đủ cung ứng cho thị trường
Theo ông Kiều Văn Mát: “Công ty đang chủ động giãn tiến độ giao hàng quốc tế để ưu tiên thị trường trong nước, nhất là các dự án nhà ở xã hội, công trình công cộng, nơi vật liệu xanh mang lại giá trị xã hội to lớn”.
Ông Mát chia sẻ: “Giá bán trong nước không cao bằng xuất khẩu, nhưng chúng tôi chọn phục vụ người Việt trước. Đó cũng là một cách để khẳng định trách nhiệm doanh nghiệp với đất nước.”
Bên cạnh sản xuất, công ty còn thành lập Ban Khoa học – Công nghệ, quy tụ các chuyên gia đầu ngành về vật liệu xây dựng nhằm nghiên cứu sâu hơn về vật liệu, quy trình và thiết bị. Mục tiêu là tạo ra sản phẩm vừa đạt chuẩn quốc tế, vừa tối ưu chi phí để phù hợp với thị trường nội địa.
“Chúng tôi xem đổi mới sáng tạo là trụ cột để phát triển. Sản phẩm xanh không thể tồn tại nếu thiếu nền tảng khoa học và công nghệ,” ông Mát khẳng định.
Ông Mát bày tỏ: “Chúng tôi mong chương trình được mở rộng quy mô, nâng lên tầm quốc gia, để nhiều doanh nghiệp Việt Nam khác được tiếp cận và chuyển mình”.
Hiện nay, Công ty CP Sông Đà Cao Cường đang mở rộng mô hình xử lý và tái chế tro xỉ tại Trung tâm Điện lực Vĩnh Tân (tỉnh Lâm Đồng). Trung bình mỗi năm, khu vực này phát sinh khoảng 1,5 triệu tấn tro xỉ.
Đáng chú ý, trong vài năm gần đây, tỷ lệ tiêu thụ và tái sử dụng tro xỉ tại Vĩnh Tân đã tăng nhanh, đến nay đã đạt mức trên 100%, tức là lượng tro xỉ phát sinh hằng năm được xử lý, tái chế hoàn toàn thay vì phải chôn lấp. Kết quả này có được nhờ việc ký kết các hợp đồng dài hạn với nhiều đối tác, đặc biệt là việc hợp tác với Công ty CP Sông Đà Cao Cường để đưa vào vận hành dây chuyền phân tách và xử lý tro xỉ ngay tại chỗ, công suất 750.000 m³/năm.
Dây chuyền do Sông Đà Cao Cường đầu tư và vận hành không chỉ giúp giảm tải cho các bãi xỉ, mà còn biến tro xỉ thành nguyên liệu đầu vào cho sản xuất vật liệu xây dựng, như bê tông khí chưng áp, tấm panel, gạch không nung, góp phần hiện thực hóa mô hình kinh tế tuần hoàn trong ngành năng lượng và góp phần thúc đẩy xanh hóa ngành công nghiệp Việt Nam.