Người Cơ Tu thoát nghèo nhờ chè dây Ra Zéh Công nghệ cao giúp nông dân Bình Thuận thoát nghèo bền vững Hà Giang: 'Thúc' người dân đổi mới tư duy thoát nghèo |
Từ cây nghèo trở thành “vàng trắng”
Dọc những triền núi gập ghềnh của huyện Thạch An, Trùng Khánh hay Hà Quảng (Cao Bằng), từng gốc sắn bén rễ vào lòng đất, nảy mầm thành hy vọng. Loài cây từng bị coi là “củ lót bụng” ngày giáp hạt giờ đây đã lặng lẽ mang về những mùa bội thu, thay đổi cuộc sống của biết bao hộ dân vùng cao.
Trong ký ức của nhiều người dân nơi đây, có thời điểm đồng bào phải bỏ ruộng, đi làm thuê vì trồng sắn mà chẳng đủ ăn. Giá rẻ mạt, kỹ thuật canh tác lạc hậu, thiếu đầu ra khiến cây sắn từng bị “ruồng bỏ”. Nhưng rồi, một làn gió mới đã thổi về từ chính sự đổi thay trong tư duy sản xuất: thay vì trồng nhỏ lẻ, manh mún, người dân bắt đầu liên kết vào hợp tác xã, vào chuỗi chế biến. Và từ đó, cây sắn “hồi sinh”.
Điển hình như Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp Ba Sạch Hưng Đạo (TP Cao Bằng), nơi đang triển khai mô hình trồng sắn hữu cơ gắn với chế biến sâu. Trong điều kiện thổ nhưỡng đồi núi dốc, đất xám bạc màu, HTX đã mạnh dạn áp dụng giống sắn cao sản KM94 kết hợp với kỹ thuật canh tác thân thiện môi trường, hạn chế hóa chất, sử dụng phân vi sinh và mô hình canh tác bền vững theo chuẩn hữu cơ.
Xe thu mua sắn trên địa bàn huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng. Ảnh: Supelamthao |
Nhờ chuyển đổi tư duy và kỹ thuật, năng suất sắn tại HTX đạt tới 20 tấn/ha. Với mức giá thu mua ổn định từ 1.200-1.500 đồng/kg tùy thời điểm, mỗi vụ người dân thu về từ 30 đến 50 triệu đồng/ha, con số không hề nhỏ với vùng cao, nơi thu nhập bình quân còn thấp, thiếu mô hình sinh kế ổn định. Điều đặc biệt là người dân không chỉ được đào tạo về kỹ thuật trồng trọt, mà còn được tham gia vào các khâu sơ chế, phơi sấy, đóng gói, từng bước chuyển từ làm thuê sang làm chủ.
Trao đổi với Báo Công Thương, chị Chu Thanh Tú, Giám đốc HTX Nông nghiệp Ba Sạch Hưng Đạo (chi nhánh Hà Nội) cho biết, hiệu quả kinh tế chỉ là một phần, điều quan trọng hơn là mô hình này đang góp phần thay đổi cách người dân nghĩ và làm nông.
“Nếu biết kết hợp sản xuất với chế biến và liên kết để phát triển vùng nguyên liệu một cách bền vững, thì không chỉ sắn mà cả những loại nông sản khác như ngô, đậu tương, chè Shan tuyết hay rau bản địa cũng sẽ mang lại giá trị kinh tế cao. Khi chuỗi giá trị được khép kín, người dân không còn chỉ ‘bán sức’ mà có thể thực sự làm chủ được sản phẩm của mình, từ đó nâng cao thu nhập, từng bước giảm nghèo một cách căn cơ và tự chủ,” chị Tú nhấn mạnh.
Đặc biệt, thông qua việc tham gia HTX, nhiều hộ gia đình dân tộc Dao, Tày, Nùng tại Hưng Đạo đã lần đầu tiên tiếp cận với khái niệm “nông nghiệp gắn thị trường”, điều trước đây tưởng như xa vời. Có hộ dân từng nằm trong diện hộ nghèo, đến nay đã thoát nghèo bền vững, có tích lũy, đầu tư lại cho sản xuất. Một số hộ còn mạnh dạn đầu tư thêm máy thái lát, máy sấy mini để chế biến tại chỗ, từng bước khép kín chuỗi cung ứng trong phạm vi hộ gia đình, mô hình nhỏ nhưng hiệu quả lớn.
Mở lối phát triển bền vững
Không chỉ riêng HTX Ba Sạch Hưng Đạo, nhiều HTX tại các huyện như Phục Hòa, Hạ Lang cũng đang tích cực vận hành mô hình “trồng sắn - sản xuất tinh bột - tiêu thụ nguyên liệu”. Đây là sự chuyển dịch từ sản xuất thuần nông sang tư duy kinh tế hàng hóa, yếu tố then chốt trong công cuộc giảm nghèo vùng cao.
Trước đây, người dân chỉ trồng sắn và bán tươi ngay tại ruộng, giá bấp bênh, phụ thuộc thương lái. Sự xuất hiện của các HTX đã giúp hình thành những cụm liên kết sản xuất, tiêu thụ, nơi người dân được tập huấn, được cung cấp giống chất lượng, phân bón đúng chuẩn, và đặc biệt là được bao tiêu sản phẩm.
Vùng nguyên liệu sắn tươi thị trấn Hòa Thuận (Quảng Hòa). Ảnh: Báo Cao Bằng |
Nhờ chuỗi liên kết này, giá trị cây sắn tăng rõ rệt. Sắn không còn chỉ là “lương thực lót bụng” mà đã trở thành nguyên liệu sản xuất tinh bột, cồn sinh học, thức ăn chăn nuôi. Tại một số vùng, cây sắn đang dần thay thế cây ngô, lúa nương, những loại cây trồng tuy quen thuộc nhưng hiệu quả thấp, đầu ra hạn chế.
Điều đáng nói, mô hình này không chỉ tạo thu nhập ổn định mà còn giữ chân người lao động ở lại quê hương, góp phần hạn chế tình trạng di dân tự do, tạo dựng cộng đồng nông thôn bền vững. Từ vai trò “hộ sản xuất cá thể”, người dân nay đã là thành viên HTX, là mắt xích trong chuỗi sản xuất lớn hơn, có tiếng nói và được bảo vệ lợi ích kinh tế.
Tỉnh Cao Bằng xác định sắn là một trong những cây trồng chủ lực trong cơ cấu lại ngành nông nghiệp. Các giống sắn mới như KM140, HL-S10, HN5 đang được khuyến khích nhân rộng, cùng với chương trình hỗ trợ kỹ thuật, tín dụng ưu đãi, đào tạo nông dân theo hướng sản xuất hữu cơ và nông nghiệp tuần hoàn.
Theo báo cáo từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, diện tích sắn toàn tỉnh hiện vào khoảng 10.000-12.000 ha, sản lượng trung bình đạt gần 200.000 tấn/năm. Cao Bằng đang từng bước quy hoạch vùng nguyên liệu sắn gắn với chế biến sâu, hướng tới mục tiêu phát triển nông nghiệp có giá trị cao, thích ứng biến đổi khí hậu và thân thiện với môi trường.
Bên cạnh đó, chính quyền các huyện như Thạch An, Nguyên Bình, Trùng Khánh cũng đang tích cực huy động nguồn lực từ các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi, nhằm đầu tư đường sá, máy móc phục vụ vận chuyển, sơ chế sắn tại chỗ.
Giữa vùng đất đá vôi ngỡ chỉ có cỏ dại mới sống nổi, cây sắn đã chứng minh một điều giản dị mà sâu sắc: nếu có niềm tin, có tổ chức sản xuất bài bản và chính sách đồng hành đúng lúc, thì chính những vùng đất khắc nghiệt nhất cũng có thể sinh ra “vàng trắng”.
Và hơn thế, cây sắn hôm nay không chỉ nuôi sống con người mà còn nuôi dưỡng khát vọng. Khát vọng thoát nghèo, khát vọng giữ đất, giữ làng, vươn lên từ chính những gì thân thuộc nhất. Người nông dân Cao Bằng đang không chỉ trồng sắn, họ đang trồng lên tương lai.
Theo thống kê từ các cơ quan chuyên môn, tổng giá trị sản phẩm sản xuất từ cây sắn trên địa bàn tỉnh hiện đạt hàng trăm tỷ đồng mỗi năm, con số minh chứng rõ rệt cho tiềm năng và hiệu quả của loại cây này. Đáng chú ý, tỷ lệ giá trị gia tăng đến từ chế biến ngày càng chiếm ưu thế. Trong khi bán sắn tươi chỉ chiếm khoảng 30-40% tổng giá trị thì 60-70% còn lại đến từ các hoạt động chế biến sâu như sản xuất tinh bột, cồn sinh học, thức ăn chăn nuôi và các sản phẩm nông nghiệp công nghiệp khác. Điều này cho thấy, khi được tổ chức lại sản xuất bài bản, kết hợp với liên kết vùng nguyên liệu và đầu tư chế biến, cây sắn hoàn toàn có thể trở thành “cây tỷ đồng” trên những vùng đất từng bị xem là cằn cỗi, bạc màu. |