Đóng

Chế Lan Viên trong tôi

Thời thơ mới 1930 - 1942, nếu được chọn một nhà thơ yêu thích nhất, tôi chọn Chế Lan Viên!

Tôi thường đi nói chuyện thơ ở các huyện, câu lạc bộ thơ. Mỗi lần bước lên diễn đàn, tôi nhìn xuống khán giả, tự đặt ra câu hỏi: 

"Nếu các bạn hỏi tôi: Trong những nhà thơ thời thơ mới 1930 - 1942, anh yêu nhà thơ nào nhất?".

Rồi tôi tự trả lời: Nếu chọn một, tôi thích Chế Lan Viên và tôi đọc luôn câu thơ:

"Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất cũng hóa tâm hồn"

Nếu yêu thơ của người thứ hai: Tôi chọn Nguyễn Bính! Tôi đọc luôn câu:

"Hôm qua em đi tỉnh về

Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều"

Tôi ngưỡng mộ Nguyễn Bính là nhà thơ của làng quê, của hương đồng gió nội. Tôi hiểu Nguyễn Bính và mê Nguyễn Bính nhờ thơ ông trích trong tập "Nhà văn hiện đại" của Vũ Ngọc Phan và cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân. Với Chế Lan Viên, tôi yêu chất trí tuệ, tầm khái quát rộng và sâu…

Từ yêu thơ Chế Lan Viên mà tôi khao khát mơ ước được gặp Chế Lan Viên. Dẫu biết rằng, ước mơ ấy chỉ là viển vông, khó mà thành sự thật. Vì năm đó, tôi là một cậu học sinh cấp ba mới tập tọe làm thơ thôi. Tuy lúc đó, tôi đã có thơ đăng ở báo tỉnh, tập san Văn nghệ của Ty văn hóa Hưng Yên ở dạng thơ Câu lạc bộ.

Tôi nhớ, khoảng năm 1962, một hôm, tôi xuống thư viện tỉnh đọc sách báo, tạp chí, thấy trên tấm bảng có ghi thông báo: "Kính mời độc giả tối nay 7h30' tới Hội trường tỉnh, cạnh Hồ Bán Nguyệt, nghe nhà văn Đào Vũ - tác giả tập tiểu thuyết "Cái sân gạch" nói chuyện".

Nhà thơ Chế Lan Viên (1920 - 1989) tên thật Phan Ngọc Hoan, sinh tại Cam Lộ, Quảng Trị.  Ảnh tư liệu

Đọc xong thông báo trên, tôi mừng quá, chỉ mong chóng tối để đến địa điểm trên gặp nhà văn Đào Vũ, ông là người quê Hưng Yên. Lại nói về chuyện tiểu thuyết "Cái sân gạch" - một cuốn tiểu thuyết về đề tài xây dựng hợp tác xã nông nghiệp gây nhiều bàn luận trên báo chí thời đó, nhất là nhân vật Lão Am gây tranh cãi về tư tưởng cá nhân bảo thủ và không bảo thủ.

Tối hôm đó, tôi được gặp nhà văn Đào Vũ lên đăng đàn, nói về quá trình ông viết "Cái sân gạch" sau chuyến đi thực tế một năm ở Vũ La (Hải Dương cũ). Trước khi nói chuyện, nhà văn Đào Vũ giới: "Về dự buổi nói chuyện của tôi, còn có nhà thơ Chế Lan Viên". Từ hàng ghế đầu, nhà thơ Chế Lan Viên đứng dậy, ông quay người xuống phía sau chào mọi người. Thấy có Chế Lan Viên, tôi từ cuối phía hội trường cố len lỏi cho bằng được lên phía trên để nhìn được rõ Chế Lan Viên.

Thấy tôi cứ nhìn ngó ngắm nghía Chế Lan Viên, anh Đồng Bằng - cán bộ Phòng văn nghệ, Ty văn hóa nói: "Đấy, ông ấy là tác gia "Điêu tàn" đấy. Cậu ngắm kỹ đi".

Thật ngạc nhiên đến kỳ diệu, trưa hôm sau, tôi đi học về thì thấy Chế Lan Viên đang ngồi nói chuyện với bố tôi. Tôi nhìn anh chào, rồi hỏi luôn:

- Anh là Chế Lan Viên ạ?

Nhà thơ Chế Lan Viên cười, bắt tay tôi rồi hỏi lại.

- Sao em biết anh là Chế Lan Viên?

Tôi trả lời:

- Tối hôm qua, anh ở Hội trường tỉnh cùng với nhà văn Đào Vũ!

Nhà thơ đáp: Đúng rồi.

Anh bắt tay tôi, tôi nhìn anh, thốt:

"Anh trẻ thế, em tưởng anh già, thơ anh uyên bác, sâu sắc lắm ạ! Như người cao tuổi, từng trải thì phải ở tuổi ngoài sáu mươi ấy.

Thực ra, Chế Lan Viên năm đó mới có 43 tuổi… Chế Lan Viên sinh năm 1920. Trước đó một năm, Chế Lan Viên ra tập thơ Ánh sáng và phù sa, gây sự chú ý về tài năng sáng tạo thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Kế hoạch 5 năm. Đây là bước tiến mới sáng tác của anh nổi nhất, sau tập thơ Điêu tàn viết năm 17 tuổi.

Cũng từ hôm đó, Chế Lan Viên ở nhà tôi gần một tháng. Tối hôm ấy, hai anh trò chuyện vui vẻ lắm. Anh kể rằng, gần ba năm trước, anh đi chữa bệnh ở Trung Quốc. Tự thấy mình về nước cần phải đi thực tế tìm hiểu phong trào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở nông thôn, nên anh đề nghị lãnh đạo Hội Nhà văn cho đi thực tế. Những năm ấy, tỉnh Hưng Yên có phong trào làm thủy lợi khá nhất miền Bắc, được Bác Hồ về tặng cờ thi đua làm thủy lợi giỏi, anh liền về Hưng Yên. Năm ấy, xã Lam Sơn của tôi cũng là một trong những xã làm thủy lợi giỏi của tỉnh. Vì thế, Chế Lan Viên chọn xã tôi là nơi anh đi thực tế, mà nơi anh lưu trú chính là nhà tôi, do cán bộ địa phương chọn.

Trong thời gian gần một tháng anh ở nhà tôi, các buổi họp của bà con xã viên, buổi nào anh cũng có mặt, chăm chú nghe bà con phát biểu, rồi ghi chép vào sổ tay.

Sau đó ít ngày, anh có bài đăng trên báo Văn học (nay là báo Văn nghệ) nhan đề: "Ngôn ngữ của quần chúng", ký tên Chàng Văn. Trong bài anh nêu: "Gần đây, tôi có về một hợp tác xã nông nghiệp, được nghe bà con nông dân nói những câu như thành ngữ ca dao về sức lao động vất vả, đại để: "Cái áo mà ráo mồ hôi thì không có ăn! Đòn gánh mà lìa khỏi vai thì đói".

Năm đó, chùa Xích Đằng có một gian dành để tạm giam một số đối tượng không chấp hành chủ trương chính sách ở địa phương nên có câu:

"Chùa Xích Đằng là nơi thờ Phật tổ

Chùa Xích Đằng là ổ giam người"

Có những buổi tối, anh rủ tôi đi thăm các gia đình có công với cách mạng trong kháng chiến chống Pháp hoặc lên đê sông Hồng anh kể cho tôi về đời tư xưa và nay của anh. Về thơ, anh nói tôi nghe về tư duy hình, tư duy lý…

Anh khuyên tôi, sau này học hết cấp ba, Thiện phải cố gắng học lấy một ngoại ngữ, Pháp hoặc Nga chẳng hạn. Không biết một ngoại ngữ thì coi như ta có hai mắt mà chột một mắt đấy. Có ngoại ngữ mới đọc văn học thế giới…, hay vô cùng đấy. Có tầm nhìn về tri thức của nhân loại.

Thấm thoắt gần một tháng trời đã qua. Anh lên đường về Hà Nội. Trước lúc đó, anh thanh toán tiền ăn cho bố tôi, bố tôi nhất định không lấy và chỉ nói là: "Bác cố gắng giúp đỡ cháu Thiện, nó thích văn chương lắm đấy - cháu nó muốn đi theo bác".

Anh Viên nhìn bố tôi, chỉ "vâng!".

Năm 1969, tôi có lên Hà Nội vào thăm Chế Lan Viên. Gia đình anh ở hai gian nhà cấp bốn, trong khu cơ quan Các hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam (51 Trần Hưng Đạo). Nhà anh quá sơ sài, chỉ toàn sách. Ở đây lại lắm khách ra vào với 10 cơ quan của Hội liên hiệp nên anh phải đề tấm biển "Thời gian chúng tôi có ít, xin miễn nói chuyện nhiều". Nhiều lúc, anh trốn khách, phải lên Quảng Bá viết. Các bài viết ở Quảng Bá, anh đều ghi dưới bài "Nhà viết Hồ Tây".

Hôm ấy, lúc chia tay, anh tặng tôi một số sách, chủ yếu là các tập ca dao, gồm các tập: Ca dao vùng mỏ, ca dao ngoại thành, ca dao Hà Tây. Anh bảo tôi: "Muốn làm thơ hay, một yếu tố quan trọng là đọc và học ca dao từ cổ chí kim"...

Sau này, Chế Lan Viên còn về công tác ở tỉnh ủy Hưng Yên một, hai lần. Lần nào, anh cũng ghé qua thăm bố tôi, tặng sách của anh cho tôi các cuốn như: Tuyển tập thơ Tố Hữu (Chế Lan Viên viết lời giới thiệu và chọn). Tuyển tập thơ Chế Lan Viên, do Hà Minh Đức giới thiệu và tuyển chọn.

Khi Chế Lan Viên về Hà Nội, gặp Xuân Diệu có kể: "Mình về Hưng Yên, ở nhà một cậu học sinh cấp ba, mê Xuân Diệu quá. Trên bàn học của cậu ấy, có treo một bức chân dung Xuân Diệu trong khung rất trang trọng, coi như một thần tượng".

Xuân Diệu nghe Chế Lan Viên kể vậy cũng muốn về nhà tôi xem mặt "cậu học trò". Sau đó, tôi cũng viết thư mời, anh Diệu đã về nhà tôi bảy ngày và ít tháng sau, tôi lên ở nhà anh Xuân Diệu ba ngày. Anh chỉ khuyên tôi, muốn viết văn, trước mắt Thiện phải có một nghề có lương để sống mà viết. Thiện nên đi vào nghề sư phạm, vì ở nước ta từ trước đến nay, chưa có nhà văn nào sống bằng nghề viết văn đâu, em ạ!

Như vậy, trong thời học sinh trung học của tôi, tôi đã được ăn, ngủ sống với hai nhà thơ lớn, ít nhiều hai anh đã ảnh hưởng cho đời thơ tôi sau này. Riêng Chế Lan Viên, tôi cảm phục anh trên nhiều lĩnh vực: Viết tùy bút, bình văn và thơ đều giàu chất trí tuệ, thông minh, tài ba mà rất giản dị, trữ tình mà uyên bác. Biết ơn anh, trân quý anh, anh Chế Lan Viên! Anh là nhịp cầu tôi đến với Xuân Diệu, đến với chân trời thơ, thế giới thơ ca.

Tôi đã sưu tầm các mẩu chuyện, giai thoại về anh. Các bài viết của tôi về anh, về thơ anh với một tấm lòng trân quý, với tên sách: "Chế Lan Viên trong tôi" để bạn đọc thêm hiểu và yêu Chế Lan Viên. Đó là mong muốn của tôi trả ơn anh - một Chế Lan Viên, không của riêng ai!

Phố Hiến, 19/6/2025

Kỷ niệm 36 năm ngày mất của Nhà thơ Chế Lan Viên

(19/6/1989 - 19/6/2025)

Nhà thơ Lê Hồng Thiện