Đóng

Chính sách khuyến công: Cú hích cho hợp tác xã vùng dân tộc

Chính sách khuyến công không chỉ hỗ trợ vốn, công nghệ mà còn góp phần tạo động lực phát triển bền vững cho các hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Phóng viên Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với ông Dương Tấn Cương - Phó Trưởng Ban Kinh tế - Chính sách, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam xung quanh vấn đề này.

Ông Dương Tấn Cương - Phó Trưởng Ban Kinh tế - Chính sách, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam

Chính sách khuyến công đang tạo chuyển biến rõ nét ở khu vực hợp tác xã

- Thưa ông, hiện nay nhiều hợp tác xã, đặc biệt là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vẫn gặp không ít khó khăn về vốn, công nghệ và năng lực quản trị. Ông đánh giá như thế nào về tác động của chính sách khuyến công trong việc tháo gỡ những hạn chế này?

Ông Dương Tấn Cương: Thực tế cho thấy, chính sách khuyến công đã và đang tác động rất tích cực đến sự phát triển của các hợp tác xã, nhất là ở khu vực miền núi.Tác động rõ nhất là ở ba khía cạnh: công nghệ, vốn và con người. Trước hết, về công nghệ, nhờ nguồn lực khuyến công, nhiều hợp tác xã đã mạnh dạn đầu tư, đổi mới máy móc, thiết bị, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Nhờ vậy, năng suất và chất lượng sản phẩm được cải thiện đáng kể. Một số hợp tác xã đã chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất theo chuỗi giá trị, tận dụng lợi thế quy mô để phát triển bền vững.

Về vốn, khuyến công đã giúp tháo gỡ một phần khó khăn lớn nhất hiện nay của các hợp tác xã. Cơ chế hỗ trợ vốn đối ứng không chỉ mang lại nguồn lực tài chính mà còn tạo động lực để hợp tác xã chủ động huy động thêm vốn từ thành viên, từ ngân hàng thương mại. Khi có “đòn bẩy” ban đầu, hợp tác xã tự tin hơn trong việc đầu tư mở rộng sản xuất.

Chính sách khuyến công hỗ trợ sản xuất cho các cơ sở công nghiệp nông thôn (Ảnh: VGP)

Cuối cùng, khuyến công còn góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Thông qua các lớp đào tạo kỹ thuật, quản trị kinh doanh, marketing… cán bộ hợp tác xã được bồi dưỡng kỹ năng điều hành, xây dựng thương hiệu và tiếp cận thị trường. Tôi cho rằng, chính sách khuyến công đang giúp các hợp tác xã “thay đổi tư duy, nâng cấp mô hình”, từ sản xuất manh mún sang phát triển chuyên nghiệp, hiện đại hơn.

Khuyến công: Cú hích giúp hợp tác xã đầu tư và liên kết hiệu quả

- Ông có thể chia sẻ ví dụ cụ thể về một mô hình hợp tác xã đã đạt hiệu quả nhờ được hỗ trợ khuyến công?

Ông Dương Tấn Cương: Có thể nhắc đến Hợp tác xã Mường Ro (Sơn La) - một mô hình tiêu biểu cho việc tận dụng tốt chính sách khuyến công.

Trước đây, hợp tác xã này sản xuất chủ yếu theo phương thức thủ công, năng suất thấp, sản phẩm khó cạnh tranh. Nhưng khi được hỗ trợ đầu tư thiết bị chế biến, bảo quản dược liệu, cụ thể là cây đương quy và atiso thì giá trị sản xuất đã tăng tới hơn 20%. Từ chỗ chỉ sản xuất nhỏ lẻ, nay hợp tác xã đã mở rộng quy mô, tạo việc làm ổn định cho người dân địa phương, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là ví dụ cho thấy khi chính sách được triển khai đúng địa chỉ, nó thực sự trở thành “đòn bẩy” giúp hợp tác xã phát triển.

Nếu nhìn rộng hơn, cách làm này tương tự mô hình mỗi làng một sản phẩm (OVOP) của Nhật Bản hay OTOP của Thái Lan - nơi các địa phương phát huy lợi thế đặc thù để phát triển sản phẩm đặc trưng, gắn sản xuất với giá trị văn hóa. Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi và nhân rộng cách tiếp cận đó thông qua khuyến công.

Tháo gỡ điểm nghẽn, đưa chính sách đi vào thực chất

- Qua quá trình đồng hành cùng các hợp tác xã, theo ông, đâu là những điểm nghẽn lớn nhất khiến chính sách khuyến công chưa phát huy hết hiệu quả?

Ông Dương Tấn Cương: Có ba “nút thắt” chính cần tháo gỡ. Thứ nhất là thiếu thông tin. Nhiều hợp tác xã chưa nắm rõ chính sách khuyến công, không biết làm thế nào để tiếp cận. Điều này khiến họ bỏ lỡ cơ hội được hỗ trợ.

Thứ hai là khó khăn trong xây dựng dự án và phương án kinh doanh. Năng lực quản trị của nhiều hợp tác xã còn hạn chế, thiếu cán bộ chuyên môn để lập hồ sơ, kế hoạch sản xuất theo yêu cầu của chương trình.

Thứ ba là vốn đối ứng và thủ tục hành chính. Nhiều hợp tác xã nhỏ, đặc biệt là do phụ nữ làm chủ, gặp khó khi phải bố trí 30-50% vốn đối ứng. Thủ tục hồ sơ lại phức tạp, khiến họ e ngại tham gia.

Theo tôi, để khuyến công thực sự hiệu quả, cần có đội ngũ cán bộ “cầm tay chỉ việc” hỗ trợ hợp tác xã từ khâu lập dự án đến hoàn thiện thủ tục. Đồng thời, nên có chính sách linh hoạt hơn về tỷ lệ vốn đối ứng, đặc biệt ưu tiên hợp tác xã ở vùng khó khăn, do phụ nữ làm chủ. Cần coi hỗ trợ khuyến công là một quá trình đồng hành, không phải chỉ cấp kinh phí rồi dừng lại. Khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý và hợp tác xã, chính sách mới thực sự đi vào chiều sâu.

Chính sách khuyến công hỗ trợ thiết bị cho các cơ sở sản xuất

Hướng tới khuyến công xanh, bền vững và gắn với chuyển đổi số

- Trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số, ông cho rằng khuyến công cần thay đổi như thế nào để hỗ trợ hiệu quả hơn cho khu vực hợp tác xã nông thôn, miền núi?

Ông Dương Tấn Cương: Tôi nghĩ rằng đã đến lúc chính sách khuyến công phải chuyển từ hỗ trợ đơn lẻ sang hỗ trợ theo chuỗi giá trị. Thay vì chỉ tập trung vào đổi mới máy móc hay đào tạo riêng lẻ, khuyến công nên tích hợp các yếu tố: vốn - công nghệ - quản trị - thị trường. Cần ưu tiên hai nhóm đối tượng chính là hợp tác xã và doanh nghiệp nhỏ, vì đây là lực lượng nòng cốt của công nghiệp nông thôn. Về lĩnh vực hỗ trợ, nên tập trung vào chế biến nông sản và xúc tiến thương mại. Bên cạnh đó, cần lồng ghép yếu tố chuyển đổi số vào các đề án khuyến công - ví dụ, ưu tiên hợp tác xã ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, truy xuất nguồn gốc, bán hàng trực tuyến.

Khuyến công cũng cần thúc đẩy kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, giúp các hợp tác xã tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải, nâng cao tính bền vững. Ngoài ra, cần kết nối chặt chẽ khuyến công với khuyến nông và chương trình OCOP. Khi sản xuất – chế biến – tiêu thụ được gắn liền trong một chuỗi, hiệu quả hỗ trợ sẽ nhân lên gấp nhiều lần.

Giữ hồn sản phẩm vùng cao, nâng giá trị bằng sáng tạo

- Với những sản phẩm đặc thù của vùng cao như nông sản, dược liệu hay thủ công mỹ nghệ, ông cho rằng nên hỗ trợ khuyến công theo hướng nào để vừa giữ gìn bản sắc, vừa nâng cao giá trị kinh tế?

Ông Dương Tấn Cương: Hỗ trợ khuyến công cho sản phẩm vùng cao phải rất tinh tế – vừa bảo tồn bản sắc, vừa phát triển kinh tế.

Trước hết, cần tập trung vào phát triển vùng nguyên liệu và ứng dụng công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Thứ hai, phải khuyến khích chế biến sâu, tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao thay vì chỉ sơ chế. Thứ ba, cần hỗ trợ thiết kế bao bì, xây dựng thương hiệu và kể câu chuyện văn hóa cho sản phẩm.

Chẳng hạn, HTX dệt thổ cẩm ở Hà Giang có thể kết nối với các nhà thiết kế để cho ra đời dòng sản phẩm hiện đại hơn nhưng vẫn đậm chất văn hóa bản địa. Khi một sản phẩm gắn với câu chuyện, nó sẽ chạm được vào cảm xúc người tiêu dùng – như cách Nhật Bản làm với rượu sake, vừa là sản phẩm kinh tế, vừa là biểu tượng văn hóa quốc gia.

Tôi cho rằng, khuyến công không chỉ là chính sách kinh tế mà còn là chính sách xã hội nhân văn sâu sắc. Thông qua khuyến công, người dân vùng cao được tạo việc làm, được học nghề, nâng cao thu nhập; đồng thời, những giá trị văn hóa truyền thống được gìn giữ và phát huy. Mỗi đề án, mỗi mô hình hỗ trợ thành công không chỉ mang lại lợi ích cho một hợp tác xã, mà còn lan tỏa tinh thần đổi mới, sáng tạo đến cả cộng đồng. Khi Nhà nước, doanh nghiệp và người dân cùng đồng hành, tôi tin khuyến công sẽ trở thành “chìa khóa vàng” để phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn mới.

Xin cảm ơn ông!

Phương Lan, Việt Nga