Đừng để tín dụng 'chạy' nhanh hơn GDP
Phân tích dữ liệu trong 20 năm qua, tại diễn đàn "Thị trường tín dụng và những vấn đề kinh tế vĩ mô" tổ chức ngày 24/12, TS. Lê Xuân Sang - Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới (VAS) cho rằng, mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng GDP của Việt Nam đang dần đi vào trạng thái ổn định hơn.
Nếu như trong các năm thuộc giai đoạn 2006 - 2010, tín dụng tăng trung bình tới 33%/năm nhưng GDP chỉ tăng hơn 6%, thì giai đoạn sau đó, đặc biệt từ 2016 đến nay, tăng trưởng tín dụng đã giảm xuống quanh mức 14 - 15% và hiệu quả thể hiện rõ hơn. Theo ông, con số đó phản ánh sự điều chỉnh của nền kinh tế sau khoảng thời gian dài tín dụng tăng "quá nóng", dòng vốn không chảy nhiều vào sản xuất - kinh doanh mà bị hút mạnh vào các lĩnh vực phi sản xuất như bất động sản, chứng khoán và đầu cơ tài sản.
TS. Lê Xuân Sang - Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới (VAS) phát biểu tại diễn đàn.
Tuy nhiên, TS. Sang lưu ý sự ổn định trên mặt thống kê này không đồng nghĩa là tuyệt đối an toàn trong tình hình hiện nay. Trong giai đoạn 2021 - 2025, nền kinh tế hứng chịu nhiều cú sốc nhất lịch sử, sốc chồng sốc, từ đại dịch, xung đột địa chính trị đến đứt gãy chuỗi cung ứng, là những tác nhân âm ỉ, vô hình chung tích tụ rủi ro tín dụng mới.
Trong đó, đáng chú ý là việc dòng vốn "chệch hướng" và sự trỗi dậy của tài sản số, là kênh hút vốn phi sản xuất đang cạnh tranh với bất động sản, chứng khoán trong thời điểm hiện tại. Dẫn số liệu từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF, tổng đầu tư tài sản số tại Việt Nam đã lên tới khoảng 38% GDP, đưa nước ta vào nhóm 6 quốc gia đứng đầu thế giới về tỷ trọng này, vượt cả Hàn Quốc.
Chưa kể, các năm 2022 - 2024, khi dòng vốn ròng chảy mạnh nhất vào tài sản số, lại là lúc nhiều quốc gia khác bộc lộ xu hướng sụt giảm mạnh. Điều này đặt ra thách thức không nhỏ về hiệu quả phân bổ vốn và mức độ rủi ro tiềm ẩn đối với hệ thống tài chính - tín dụng của Việt Nam.
Trong khi đó, góc nhìn khác cũng cho thấy dòng vốn chưa thực sự ưu tiên cho các lĩnh vực tạo giá trị gia tăng dài hạn. Ví dụ như ở khu vực tín dụng truyền thống, cơ cấu tín dụng theo ngành cho thấy tín dụng cho thương mại đang chậm lại, ngược chiều tín dụng bất động sản tăng mạnh, có thời điểm lên tới hơn 30%.
Ngoài dòng tiền lệch hướng, rủi ro về lạm phát cũng là vấn đề cần thận trọng, dù gần đây đã hạ nhiệt nhờ thương mại điện tử phát triển, hệ thống phân phối hàng hóa hiện đại (các siêu thị quy mô lớn), giá nhập khẩu từ Trung Quốc giảm... Song, dường như lạm phát đã quay trở lại, từ giữa năm 2025 ghi nhận tốc độ tăng cao trong khối Asean.
Mặt khác, hệ số an toàn vốn (CAR) của hệ thống ngân hàng Việt Nam đang ở mức thấp so với khu vực, kể cả so với nhiều nước kém phát triển hơn. Việc dự trữ vốn thấp sẽ hạn chế khả năng mở rộng tín dụng an toàn trong trung và dài hạn, ảnh hưởng đến tham vọng tăng trưởng của nước ta. Cuối cùng, là câu chuyện nợ xấu, sau thời gian dài được kiểm soát, đang có dấu hiệu "ngóc dậy" từ năm 2023, ngấp nghé mức cao của giai đoạn 2012 - 2013.
Từ tổng hợp nhiều nghiên cứu quốc tế, TS. Lê Xuân Sang kết luận một quan điểm chung, đó là: "Tăng trưởng quá nóng gây rủi ro nợ xấu, lạm phát, bong bóng tài sản và bất ổn tài chính vĩ mô".
Bên cạnh đó, không nên kỳ vọng quá lạc quan và đầu tư ồ ạt. Đơn cử như một số quốc gia láng giềng có tỷ lệ đầu tư lên tới hơn 50% GDP trong nhiều năm, tình trạng dư thừa năng lực sản xuất, dẫn tới thua lỗ, phá sản, nợ xấu và khiến ngành ngân hàng gặp nhiều khó khăn.
TS. Sang nhấn mạnh góc nhìn thận trọng về vai trò của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) và công nghệ mới. Dẫn nghiên cứu 40 năm của IMF, ông cho biết đóng góp của TFP vào tăng trưởng toàn cầu đang giảm dần, đặc biệt ở các nền kinh tế mới nổi. Thậm chí, khảo sát gần đây của McKinsey trên 800 doanh nghiệp toàn cầu cho thấy sau ba năm ứng dụng AI tạo sinh (Gen AI), hiệu quả thực tế hầu như không tăng.
TS. Sang nhận định trong ít nhất 5 - 10 năm tới, Việt Nam vẫn phải dựa chủ yếu vào nâng cao hiệu quả đầu vào sản xuất, thay vì kỳ vọng đột phá lớn từ TFP.
Xử lý "nút thắt" trên thị trường chứng khoán
TS. Lê Xuân Sang đánh giá rằng, điều quan trọng hiện nay không chỉ là bơm thêm vốn vào nền kinh tế, mà là định hướng lại dòng tín dụng theo hướng chọn lọc, lành mạnh và hỗ trợ các động lực tăng trưởng bền vững.
Về mặt tổng quát, theo ông, việc đa dạng hóa nguồn vốn hay phát triển thị trường chứng khoán, nhất là trái phiếu doanh nghiệp đã đề cập nhiều rồi, nhưng chưa giải quyết được vấn đề ở chỗ khâu thực thi, cụ thể là hệ thống xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp.
Toàn cảnh diễn đàn "Thị trường tín dụng và những vấn đề kinh tế vĩ mô".
"Lâu nay chúng ta chưa làm được cái sâu xa là xếp hạng tín dụng, xếp hạng tín nhiệm. Chúng ta không đủ quyết tâm chính trị, không đủ quyết tâm trên thực tế để làm vấn đề này", ông Sang nói và tái khẳng định, đây là "nút thắt" lớn khiến thị trường vốn Việt Nam kém phát triển so với tiềm năng, và doanh nghiệp vẫn phụ thuộc nặng nề vào kênh tín dụng ngân hàng
Đối với thị trường cổ phiếu, TS. Lê Xuân Sang đặt câu hỏi: Vì sao sau nhiều năm, Việt Nam vẫn được ca ngợi là "ngôi sao sáng" về tăng trưởng, nhưng chứng khoán Mỹ tăng gấp 4 lần kể từ sau khủng hoảng, trong khi thị trường chúng ta vẫn loay hoay?
Một trong những nguyên nhân cốt lõi nằm ở đòn bẩy tài chính phi chính thức quá cao và tình trạng xung đột lợi ích trong hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán. Thực tế, có trường hợp nhà đầu tư chỉ có 10 đồng vốn nhưng quỹ cho vay thêm 90 đồng, nên chỉ cần thị trường giảm vài phần trăm đã dẫn tới "bán tháo" và khó phục hồi.
Bên cạnh đó, hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán cũng tiềm ẩn rủi ro thao túng, khi công ty vừa là môi giới, vừa là nhà đầu tư trên chính thị trường mà mình nắm nhiều thông tin. TS. Sang nhắc lại kinh nghiệm của Trung Quốc, quốc gia đã cấm công ty chứng khoán hoạt động tự doanh từ hàng chục năm trước để hạn chế xung đột lợi ích.
Theo ông, nếu không xử lý thực chất các vấn đề này, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ khó bứt phá, dù nền kinh tế tăng trưởng cao và câu chuyện cải cách được nhắc đến thường xuyên.
Tín dụng xanh và yêu cầu khung quản lý mới
Một mảng chính sách khác được TS. Lê Xuân Sang nhấn mạnh là tín dụng xanh. Ông cho biết, đến tháng 6 vừa qua, Việt Nam mới có được danh mục "quỹ xanh" nhưng còn nhiều vấn đề, nổi cộm là trong ngành ngân hàng.
Hệ thống ngân hàng cần sớm được yêu cầu có chuẩn mực tín dụng xanh, cơ chế đánh giá và giám sát rủi ro riêng đối với tài sản xanh. Kinh nghiệm EU cho thấy nhiều nước đã đưa "Stress test" (kiểm tra sức chịu đựng) đối với danh mục tài sản xanh vào khuôn khổ giám sát ngân hàng, nhằm đảm bảo quá trình chuyển dịch không gây rủi ro tài chính mới.
TS. Lê Xuân Sang đánh giá rằng, điều quan trọng hiện nay không chỉ là bơm thêm vốn vào nền kinh tế, mà là định hướng lại dòng tín dụng theo hướng chọn lọc, lành mạnh và hỗ trợ các động lực tăng trưởng bền vững.
Song song với đó, việc xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo rủi ro tín dụng - điều đã được nhắc đến nhiều năm, cũng cần được triển khai nghiêm túc, thay vì chỉ dừng ở khẩu hiệu.
Ở góc độ đầu tư, tín dụng xanh cũng là vấn đề cần quan tâm, góp phần giảm áp lực lạm phát. Ông nêu ví dụ về điện gió ngoài khơi, vốn là lĩnh vực Việt Nam có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi. Tuy nhiên, để tín dụng chảy vào các dự án năng lượng tái tạo quy mô lớn, hiện nay đang vướng hai rào cản lớn của tín dụng xanh, như giới hạn cho vay không quá 15% vào một ngành/khách hàng, và rủi ro "sai lệch kép" (dự án dài hạn 15 - 20 năm nhưng tỷ giá biến động mạnh).
Những rủi ro này buộc phải có sự tham gia của nguồn vốn và bảo lãnh từ phía Nhà nước, vừa là câu chuyện kinh tế, vừa liên quan đến an ninh năng lượng quốc gia.
Giữa bối cảnh áp lực tăng trưởng cao, TS. Phạm Xuân Hòe - Tổng Thư ký Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam cho rằng cần giải pháp giảm áp lực vốn cho hệ thống ngân hàng thương mại.
Theo TS. Hòe, tăng trưởng bền vững chỉ có thể đạt được khi vốn được đầu tư thực chất vào cơ sở sản xuất, máy móc thiết bị và các dự án dài hạn. Trong các kiến nghị chính sách, ông nhấn mạnh vai trò của tín dụng xanh và sự cần thiết phải sử dụng hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ - tài khóa để định hướng dòng vốn theo đúng hướng.
Để tín dụng xanh thực sự phát huy vai trò, cần có các cơ chế ưu đãi rõ ràng và đủ mạnh, từ lãi suất, phí cho đến các chính sách hỗ trợ phi tài chính. Việc miễn, giảm chi phí cho các hoạt động phục vụ sản xuất và tiêu dùng xanh hoàn toàn có thể thực hiện được nếu Việt Nam đã số hóa mạnh mẽ và có đủ công cụ quản lý hiện đại.
Đồng thời, ông kiến nghị thành lập Quỹ tái cấp vốn xanh do Ngân hàng Nhà nước quản lý, nhằm hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng thương mại khi cho vay các dự án xanh.