Cần hoàn thiện khung pháp lý
Chia sẻ tại hội thảo “Chính sách phát triển thị trường tín chỉ carbon - Những vấn đề đặt ra và khuyến nghị” do Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam tổ chức ngày 17/6 tại Hà Nội, các chuyên gia cho rằng thị trường tín chỉ carbon là công cụ giúp định giá các tác động môi trường, tạo động lực cho các hành động giảm phát thải và khuyến khích đầu tư vào công nghệ sạch.
Đánh giá việc xây dựng và vận hành thị trường tín chỉ carbon là chính sách quan trọng để thực hiện cam kết giảm phát thải của Việt Nam, chuyên gia kinh tế Nguyễn Mạnh Hải cho rằng, việc Chính phủ Việt Nam xác định phát triển thị trường tín chỉ carbon là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện cam kết giảm phát thải và phát triển bền vững được coi là thuận lợi cho phát triển thị trường này.
Việt Nam có tiềm năng lớn về tín chỉ carbon do có diện tích rừng lớn. Ảnh minh hoạ
Trong khi một số thuận lợi khác là Việt Nam có tiềm năng lớn về tín chỉ carbon do có diện tích rừng lớn, đặc biệt là rừng trồng, có khả năng hấp thụ và lưu trữ lượng lớn carbon cũng như đã tham gia các cơ chế quốc tế như Cơ chế phát triển sạch (CDM) và đã chuyển nhượng thành công tín chỉ carbon cho Ngân hàng Thế giới.
Tuy nhiên, vị chuyên gia này cũng thẳng thắn chỉ ra những khó khăn của Việt Nam trong phát triển thị trường tín chỉ carbon. Đó là, khung pháp lý chưa hoàn thiện cũng như còn thiếu chuyên gia và nhân lực chất lượng cao. Các tổ chức, doanh nghiệp và một số cơ quan quản lý còn thiếu kiến thức chuyên sâu về thị trường carbon, dẫn đến khó triển khai các dự án đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Đặc biệt, việc thiếu động lực và thông tin tham gia thị trường đang là một thách thức khi nhiều doanh nghiệp chưa thấy rõ lợi ích kinh tế từ việc giảm phát thải và tham gia thị trường carbon.
“Chi phí ban đầu để đầu tư vào công nghệ giảm phát thải cao, trong khi lợi nhuận từ tín chỉ carbon chưa rõ ràng. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không có thông tin đầy đủ về quy trình phát triển dự án carbon, bán tín chỉ hay tham gia các cơ chế cụ thể của thị trường carbon”, TS. Nguyễn Mạnh Hải nói.
Mô hình hợp tác công - tư để phát triển thị trường tín chỉ carbon
Đề xuất những đường hướng phát triển thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam, bà Nguyễn Thị Thuỳ Linh, Công ty Cổ phần Greener Future cho rằng, mô hình hợp tác công tư (PPP) có thể là một gợi ý bởi để đạt được các mục tiêu giảm phát thải tham vọng, không thể thiếu sự chung tay của khu vực tư nhân bên cạnh nỗ lực của Nhà nước. PPP theo chuyên gia này chính là “cầu nối để hai bên chia sẻ nguồn lực, giảm thiểu rủi ro và mở rộng quy mô các giải pháp phát thải thấp”.
Tinh thần này thể hiện qua việc Nhà nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực trước đây chủ yếu do các dự án công hoặc viện trợ đảm nhiệm, như năng lượng tái tạo, nông nghiệp bền vững và trồng rừng hấp thụ carbon. Doanh nghiệp ngày càng thể hiện vai trò tiên phong trong các sáng kiến giảm phát thải và phát triển tín chỉ carbon. Nhiều tập đoàn lớn tại Việt Nam đã chủ động đầu tư vào dự án giảm phát thải nhằm vừa thực hiện trách nhiệm môi trường, vừa đón đầu cơ hội từ thị trường carbon.
Chuyên gia Nguyễn Thị Thuỳ Linh dẫn chứng một xu hướng hợp tác công - tư đáng chú ý là sự ra đời của các mô hình doanh nghiệp về tín chỉ carbon và chia sẻ lợi ích với cộng đồng qua trường hợp Tập đoàn Lộc Trời - một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực nông nghiệp.
Tập đoàn này đã triển khai mô hình canh tác lúa bền vững (theo tiêu chuẩn SRP) giúp giảm phát thải khí mê-tan và là doanh nghiệp đầu tiên ở Việt Nam tạo được tín chỉ carbon từ cây lúa.
Đáng chú ý, Lộc Trời cam kết chia sẻ lợi nhuận tín chỉ carbon với nông dân: Toàn bộ doanh thu bán tín chỉ, sau khi trừ chi phí đầu tư và chứng nhận, sẽ thuộc về người nông dân tham gia mô hình. Đồng thời, doanh nghiệp tự nguyện đóng góp 30% số tín chỉ carbon tạo ra cho Nhà nước, chỉ bán ra thị trường 70%.
“Đây là một mô hình hợp tác sáng tạo “3 bên cùng có lợi”: Nhà nước có thêm tín chỉ để thực hiện cam kết quốc gia, doanh nghiệp nâng cao uy tín thương hiệu và hiệu quả sản xuất, còn nông dân được hưởng lợi kinh tế trực tiếp từ canh tác phát thải thấp”, bà Nguyễn Thị Thuỳ Linh nói.
Theo bà Linh, nhiều dự án đầu tư theo phương thức PPP trong năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng, xử lý chất thải… đang được khuyến khích để vừa cải thiện hạ tầng, vừa giảm phát thải. Các chuyên gia đề xuất Chính phủ triển khai thí điểm các dự án PPP về khí hậu. Ví dụ, dự án điện gió hoặc điện mặt trời kết hợp nhận hỗ trợ từ Quỹ khí hậu nhằm tạo cơ hội cho doanh nghiệp tiếp cận công nghệ và vốn cho chuyển đổi xanh.
Trong khi đó, TS. Hồ Công Hòa, Học viện Chính sách và Phát triển, đã nhấn mạnh đến giải pháp xây dựng cơ chế điều phối liên ngành và tăng cường năng lực thể chế.
Theo chuyên gia này, thị trường carbon là một công cụ điều tiết liên ngành, do đó, cần có một cơ chế điều phối tập trung, có thể dưới hình thức Ủy ban Điều phối thị trường carbon quốc gia do Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo. Các bộ, ngành như Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, cần phối hợp chặt chẽ trên cơ sở quy định rõ vai trò, trách nhiệm tại Nghị định sửa đổi và dự thảo sàn giao dịch.
“Việc nâng cao năng lực thể chế, đặc biệt là ở cấp địa phương và các đơn vị cấp phát, thẩm định, thanh tra cũng cần được cụ thể hóa bằng các chương trình đào tạo, chuyển giao kỹ thuật và đầu tư hạ tầng hành chính số”, TS Hoà nói.
Việc phát triển thị trường tín chỉ carbon giúp Việt Nam đạt được mục tiêu phát triển bền vững bằng cách giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường và tạo ra cơ hội kinh tế mới cho cộng đồng và doanh nghiệp.