Đóng

Chuyện về người giữ biển trong mùa gió chướng

Đến thăm các đảo tiền tiêu vùng biển Tây Nam và nhà giàn DK-1 vào mùa gió chướng mới cảm nhận được nỗi gian nan, vất vả của những người lính nơi đảo xa.

 

Từ cảng Cát Lái (TP.Hồ Chí Minh), con tàu 561 của Quân chủng Hải quân chở 240 đại biểu, gồm cả kíp tàu và tổ phục vụ, rẽ sóng thẳng tiến về vùng biển phía Tây Nam Tổ quốc. Trung tuần tháng Chín, gió chướng đang vào kỳ chuyển mùa, tưởng rằng biển sẽ hiền hòa hơn, nhưng sóng dữ vẫn bủa vây. Từng đợt gió Tây Nam thổi mạnh, dồn đẩy những con sóng cao 1 - 1,5m, có lúc những cơn sóng lừng bất chợt dâng lên từ lòng biển sâu.

 

Với những người lính hải quân hay ngư dân từng quen với biển, những đợt sóng ấy chẳng đáng kể gì. Nhưng với những đại biểu lần đầu đi biển, say sóng trở thành một thử thách thực sự. Không ít người nằm bẹp trên giường, chỉ còn nghe thấy tiếng sóng dội vào mạn tàu, thân tàu lắc lư, trồi lên rồi hạ xuống theo từng đợt sóng lừng. Song chính những ngày đầu ấy lại giúp họ cảm nhận rõ hơn gian khổ mà bộ đội và Nhân dân ngoài đảo xa phải đối diện mỗi ngày.

 

Là người đã có hơn 32 năm kinh nghiệm đi biển và sống trên biển, Thượng tá Mai Trọng Thiêm cho biết, nếu như gió mùa Đông Bắc thường ổn định nhưng kéo dài, có khi cả tháng, thì gió chướng Tây Nam lại ngắn hơn, phức tạp hơn, vì đi kèm nhiều dông lốc bất ngờ, khiến công tác đi biển trở nên vất vả. Người đi biển thường nói, ‘ai yếu thì say sóng, ai khỏe thì chịu đựng’, bởi tàu thuyền vẫn phải làm nhiệm vụ bất kể điều kiện thời tiết khắc nghiệt.

 

Theo quy luật, mùa gió chướng thường kéo dài khoảng hơn hai tháng, từ cuối tháng 6 đến cuối tháng 8, sau đó bước vào thời kỳ giao mùa từ tháng 9 đến tháng 10. Đây chính là đặc thù khắc nghiệt của vùng biển Tây Nam mà cán bộ, chiến sĩ Hải quân cũng như ngư dân phải đối diện, vượt qua để hoàn thành nhiệm vụ, giữ vững nhịp sống nơi đảo xa.

 

Và chuyến đi này tôi đã gặp những con người quả cảm, hiên ngang, đang sống, làm việc ở những nơi mà điều kiện khắc nghiệt nhất - họ vẫn bám biển, bám đảo để giữ vững chủ quyền của Tổ quốc và cả cho cuộc sống mưu sinh của chính mình.

 

Trong hành trình đi, chúng tôi được ghé thăm các đảo: Thổ Chu, Hòn Chuối, Hòn Khoai rồi Hòn Đốc... những đảo tiền tiêu chiến lược vùng biển Tây Nam của Tổ quốc. Trong đó, để đến với Hòn Chuối, từ tàu 561 chúng tôi phải chuyển sang thuyền của ngư dân Võ Minh Cảnh quê ở Cà Mau.

 

Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết, ngư dân Võ Minh Cảnh đã có 18 năm bám biển, chiếc ghe nhỏ do gia đình tự đóng là cả cơ nghiệp mưu sinh, cùng nhau vươn khơi của sáu lao động.

Mùa gió chướng cá tôm phong phú, sản lượng thường cao hơn, nhưng cũng là mùa sóng to khó neo đậu ghe thuyền. Nguy hiểm luôn rình rập, có khi chuyến đi kéo dài cả tháng trời, ông kể và cho biết: Trung bình, mỗi chuyến đi biển kéo dài khoảng một tháng, khi trở về thường ghé đảo để bán cá cho thương lái thu mua, sau đó họ vận chuyển vào đất liền tiêu thụ”.

Bày tỏ sự cảm ơn trong ánh mắt ông nói, trong suốt thời gian bám biển, ngư dân luôn nhận được sự hỗ trợ thiết thực của các lực lượng chức năng trên đảo Hòn Khoai và trên biển như Hải quân, Biên phòng. Các lực lượng thường xuyên tuyên truyền cho bà con chấp hành pháp luật, đặc biệt là chống khai thác hải sản bất hợp pháp (IUU).

Khi ngư dân gặp sự cố, ốm đau, tai nạn trên biển, lực lượng đều kịp thời hỗ trợ thuốc men, cấp nước ngọt, thậm chí tặng cờ Tổ quốc để bà con treo trên tàu như một biểu tượng thiêng liêng của niềm tin và trách nhiệm.

Sự hiện diện và đồng hành của bộ đội ngoài khơi là chỗ dựa vững chắc để chúng tôi vượt qua khó khăn”, ông Cảnh bày tỏ.

 

Với ông Cảnh, thu nhập từ nghề biển cơ bản bảo đảm cho cuộc sống gia đình, nhưng rủi ro vẫn luôn hiện hữu, nhất là trong những năm biển động mạnh. Dẫu vậy, ông cùng bà con ngư dân vẫn quyết tâm bám biển, vừa mưu sinh, vừa góp phần giữ gìn chủ quyền vùng biển đảo thiêng liêng.

Ở đảo Hòn Chuối, gia đình chị Hồng Thanh Trang đã có thời gian gắn bó gần 30 năm chia sẻ: Hai vợ chồng nuôi cá lồng bè, buôn bán tạp hóa. Cuộc sống bấp bênh, có vụ được, có vụ mất trắng vì nước nhiễm bệnh, cá chết hàng loạt. Nhưng chị vẫn gắn bó với đảo vì tình làng nghĩa xóm, vì “ở đảo ít người nhưng chan hòa, có việc gì cũng cùng nhau góp mặt như một làng quê lớn".

 

 

Trong hành trình, đoàn ghé thăm các trạm ra đa, nơi những người lính hải quân ngày đêm bám sóng giữ trời.

Đã có thời gian công tác ba năm trên đảo, thượng úy Phan Anh Hào - Phó Trạm trưởng Trạm ra đa 615, Trung đoàn 551, Vùng 5 Hải quân thông tin: “Điều kiện hiện nay đã khá hơn nhiều. Nước ngọt được bảo đảm, bữa ăn đủ chất, anh em có thêm rau xanh từ tăng gia sản xuất. Nhưng quý giá nhất là tình quân dân, là sự động viên của các đoàn công tác từ đất liền. Tình cảm ấy giúp chúng tôi vững tâm canh giữ biển trời.”

Còn tại Hòn Đốc, đại úy Nguyễn Văn Muộn - cán bộ quân y Trạm ra đa 625 đã có 17 năm công tác tại đảo, gia đình thì ở Quảng Ninh, nhưng với Đại úy Nguyễn Văn Muộn nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe bộ đội và bà con là trách nhiệm thiêng liêng của người thầy thuốc.

Hoàn cảnh gia đình đại úy Nguyễn Văn Muộn cũng còn rất nhiều khó khăn, hiện con trai lớn phải điều trị can thiệp do rối loạn phổ tự kỷ, cháu nhỏ mới một tuổi. Song với trách nhiệm của một người lính quân y, anh luôn xác định tư tưởng vững vàng, đặt nhiệm vụ phục vụ bộ đội, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân lên trên hết.

 

Cũng như anh Muộn, để những người lính hải quân bền lòng, vững tay súng thì gia đình chính là hậu phương vững chắc của các anh.

Đại úy Hồ Xuân Trường quê Nghệ An, cán bộ Trạm ra đa 625 chia sẻ thêm, gia đình tôi ở Nha Trang, tôi may mắn có người vợ luôn thấu hiểu, chia sẻ và trở thành hậu phương vững chắc. Vợ tôi từng là giáo viên tiếng Anh tại một trường mầm non quốc tế, nhưng khi con đầu vào lớp một, con thứ hai còn nhỏ, vợ đã tạm gác công việc để toàn tâm chăm sóc gia đình, tạo điều kiện để tôi yên tâm hoàn thành nhiệm vụ nơi đảo xa.

 

Theo đại úy Trường, nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự tạo điều kiện của quân đội, cán bộ, chiến sĩ công tác tại Trạm ra đa 625 luôn được bảo đảm chế độ nghỉ phép, nghỉ tranh thủ hằng năm. Điều đó giúp chúng các anh có cơ hội ổn định đời sống, xây dựng gia đình, nuôi dạy con cái. Các chế độ, chính sách của quân đội không chỉ chăm lo đời sống vật chất mà còn quan tâm sâu sắc đến tinh thần của bộ đội, giúp anh em yên tâm công tác, gắn bó lâu dài với đơn vị.

 

Cũng như tại các đảo tiền tiêu, tại nhà giàn DK-1/10, thiếu tá Lê Xuân Hoan đã có năm năm bám trụ tại nhà giàn - đây là quãng thời gian anh không thể nào quên.

Thiếu tá Lê Xuân Hoan kể, những ngày đầu công tác tại Nhà giàn DK1, tôi vừa bỡ ngỡ vừa xúc động trước muôn vàn khó khăn. Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, quân đội, đặc biệt là Bộ Quốc phòng, Quân chủng Hải quân, hệ thống nhà giàn nay đã được nâng cấp khang trang, vững chắc, tạo điều kiện để cán bộ, chiến sĩ yên tâm rèn luyện, sẵn sàng chiến đấu, giữ vững chủ quyền biển đảo phía Tây Nam.

 

Thời gian đầu, diện tích chật hẹp khiến việc tăng gia sản xuất rất khó khăn, nhưng anh em vẫn tận dụng từng khoảng trống để trồng rau, nuôi thả, góp phần cải thiện bữa ăn, bảo đảm sức khỏe. Gia đình tôi hiện sống ở Hải Phòng; vợ cũng là quân nhân nên thấu hiểu công việc của chồng và trở thành điểm tựa vững chắc để tôi yên tâm công tác”- anh Hoan cho hay.

 

Sau 5 năm gắn bó, ấn tượng nhất đối với người sĩ quan hải quân là tình đồng chí, đồng đội keo sơn và sự quan tâm của các đoàn công tác từ đất liền. Anh cho biết, mỗi chuyến tàu ra thăm là một lần chúng tôi cảm nhận sâu sắc tình cảm đồng bào, để thêm tự hào và quyết tâm bám trụ.

Nhiều chuyến tàu ra, biển động, gió to, sóng lớn  khiến tàu không thể tiếp cận nhà giàn. Những món quà hậu phương gửi ra phải thả trôi trên biển, có lúc ướt hỏng, nhưng tình cảm gửi gắm bên trong vẫn nguyên vẹn. Đó là nguồn động viên lớn lao, giúp chúng tôi thêm vững vàng vượt qua gian khổ, hoàn thành nhiệm vụ, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc”- Thiếu tá Hoan bày tỏ.

 

Trong suốt chuyến đi, không chỉ có cán bộ, chiến sĩ hay người dân đảo xa chia sẻ tâm sự. Ca sĩ Phương Thanh, một thành viên trong đoàn đã nhiều lần ra Trường Sa cùng các đảo và nhà giàn vùng biển Tây Nam.

 

Theo lời chị kể, lần đầu tiên đi Trường Sa, chị đã khóc rất nhiều. Khóc vì xúc động, vì không ngờ cuộc sống của bộ đội nơi đảo xa lại vất vả và nhiều hy sinh đến vậy. Các anh xa gia đình, xa mẹ cha, gác lại tình riêng để giữ biển, giữ trời. Từ đó, chị tự nhủ với mình: suốt hành trình 14 ngày trên biển, sẽ dành tất cả năng lượng, tất cả tình yêu thương để hát, để sẻ chia, để trở thành một người chị, một người mẹ, một người bạn đồng hành cùng các anh.

Có khi sóng gió quá lớn, tàu không thể cập đảo. Nhưng tôi vẫn xin được xuống, chỉ để hát vọng một câu, gửi trọn tấm lòng đến bộ đội. Tôi tin, đôi khi chỉ một tiếng hát ngắn ngủi thôi cũng đủ làm ấm lòng, tiếp thêm sức mạnh cho các anh vững vàng trước biển trời đầy sóng gió”, ca sĩ Phương Thanh nói.

 

Theo ca sĩ Phương Thanh, điều làm chị xúc động nhất không chỉ là sóng to gió lớn, mà là ánh mắt, nụ cười của những người lính trẻ: "Nhiều em chỉ mới mười tám, đôi mươi, cùng lứa tuổi với con tôi. Các em gồng mình gánh vác trọng trách lớn lao, mạnh mẽ và kiên cường đến nỗi tôi tự hỏi: mình còn điều gì phải do dự nữa đâu, mình nhất định phải tiếp tục cống hiến. Và thế là mỗi lần có danh sách, tôi lại tình nguyện đăng ký ra đảo, coi đó là một cuộc hẹn thiêng liêng.

Với tôi, mỗi chuyến đi là hành trình của tình yêu thương, của sự kết nối. Đó là sợi dây vô hình nhưng bền chặt giữa hậu phương và tiền tuyến. Và chỉ cần còn sức khỏe, còn hơi thở, tôi sẽ còn đi, sẽ còn hát, sẽ còn gửi tất cả tình cảm chân thành của mình đến những người lính nơi đầu sóng".

 

 

Tám ngày trên biển, qua bao đảo xa, nhà giàn, mỗi thành viên trong đoàn đã cất giữ cho mình một mảnh ký ức không thể phai. Có người nhớ nụ cười lính trẻ, có người thương đôi bàn tay chai sần của ngư dân... tất cả hợp thành một bức tranh rộng lớn về sức sống, về sự bền bỉ của quân và dân nơi đầu sóng ngọn gió.

 

Mùa gió chướng Tây Nam vẫn sẽ trở lại mỗi năm, mang theo bao thử thách. Nhưng trên những hòn đảo, những nhà giàn kiên cường, vẫn có những con người ngày ngày vững vàng bám biển, bám trời. Và từ đất liền, những chuyến tàu nghĩa tình vẫn tiếp tục ra đi, chở theo cả yêu thương, niềm tin, và sự gắn kết máu thịt của dân tộc.

Thu Hường - Hồng Thịnh