Có tới 20% hộ đồng bào dân tộc thiểu số rơi vào tình trạng tái nghèo
Giảm nghèo bền vững luôn là chủ trương lớn, quan trọng, nhất quán của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Nhờ những nỗ lực không ngừng và hệ thống chính sách, pháp luật được ban hành khá đồng bộ, toàn diện, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công tác giảm nghèo trong những thập kỷ qua.
Hỗ trợ vùng đồng bào dân tộc phát triển vùng dược liệu quý.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giảm nghèo tại Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức. Kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững, nguy cơ tái nghèo và phát sinh nghèo còn cao. Sự chênh lệch về mức sống, khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản, thị trường và việc làm giữa các địa phương, vùng miền, nhóm dân cư vẫn chưa được thu hẹp đáng kể.
Một số nguyên nhân chính được chỉ ra là cơ chế, chính sách, chương trình giảm nghèo chưa thực sự hiệu quả, nguồn lực đầu tư chưa đáp ứng nhu cầu thực tế, và một bộ phận người nghèo vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ mà chưa chủ động vươn lên.
Theo kết quả điều tra, có tới 20% hộ đồng bào dân tộc thiểu số rơi vào tình trạng tái nghèo chỉ sau 2 năm thoát nghèo. Đây là con số đáng lưu tâm, đặt ra yêu cầu phải chú trọng hơn đến tính bền vững trong các mô hình sinh kế.
Theo bà Đỗ Lê Thu Ngọc, Trợ lý Trưởng đại diện UNDP Việt Nam, Trưởng phòng Tăng trưởng bao trùm của cơ quan này thì giảm nghèo có thực sự bền vững không, đây chính là câu hỏi lớn? Dù các dự án sinh kế đã hướng tới tham gia chuỗi giá trị, nhưng phần nhiều vẫn tập trung vào khâu sản xuất, chưa chú trọng đến liên kết và mở rộng thị trường. Người dân ít có cơ hội tiếp cận công nghệ số, chưa tận dụng được chuyển đổi số để đưa nông sản, sản phẩm vươn ra ngoài địa phương.
Bà Đỗ Lê Thu Ngọc cho rằng, cần khắc phục ở bốn điểm chính: Với những hộ nghèo còn khả năng lao động, cần hỗ trợ để nâng cao năng suất, đa dạng hóa sinh kế; tạo điều kiện cho hộ nghèo tiếp cận tài chính qua vốn vay ưu đãi và các khoản đầu tư phù hợp; thúc đẩy liên kết sản xuất với doanh nghiệp trong và ngoài vùng, để tạo động lực phát triển dài hạn; tăng cường tập huấn, giúp hộ nghèo thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao kỹ năng sản xuất.
Vốn, tri thức và chuyển đổi số mở lối sinh kế
Theo các chuyên gia, cùng với sinh kế, phát triển hạ tầng, cải thiện dinh dưỡng cũng là một trong những nội dung quan trọng của chương trình. Có hai yếu tố then chốt cần mang đến cho người dân: vốn và tri thức. Thứ nhất, phải tạo cơ chế để người dân dễ dàng tiếp cận nguồn vốn, dễ tiếp cận kiến thức khoa học kỹ thuật, kể cả qua nền tảng số. Ngành Nông nghiệp và Môi trường đã số hóa quy trình kỹ thuật của nhiều cây trồng, vật nuôi; người dân có thể xem trực tiếp hình ảnh, video, tài liệu để áp dụng.
Trồng sâm Ngọc Linh tại vùng đồng bào dân tộc tại khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Ảnh. Hồ Quân
Thứ hai, phải gắn sản xuất với chất lượng. Từ các tiêu chuẩn tại cơ sở cho đến chứng nhận quốc gia, vùng, thậm chí quốc tế. Khi sản phẩm đạt chuẩn chất lượng, việc tiếp cận thị trường thuận lợi hơn, tạo đầu ra ổn định. Đây mới là gốc rễ để xóa đói, giảm nghèo bền vững.
Nhấn mạnh đến vai trò của nhân rộng mô hình sinh kế, theo bà Đỗ Lê Ngọc Thu, thực tế, nhiều mô hình thí điểm đã làm rất tốt, như liên kết giữa doanh nghiệp và hợp tác xã, mô hình bao tiêu sản phẩm. Tuy nhiên, việc nhân rộng còn chưa đồng đều, dẫn đến hiệu quả lan tỏa chưa cao. Theo bà, cần có giải pháp để mở rộng các mô hình này, qua đó gia tăng tác động tới công tác giảm nghèo. Một điểm nữa là chuyển đổi số. Rất nhiều tỉnh nghèo, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chưa tiếp cận được các kỹ năng số. Vì vậy, việc nâng cao năng lực về chuyển đổi số cho cộng đồng là hết sức cần thiết, để họ biết cách quảng bá sản phẩm, mở rộng thị trường, tạo sinh kế bền vững hơn.
Từ góc độ cơ quan chuyên môn, ông Nguyễn Hữu Điệp, Chuyên viên chính, Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho hay, để nâng cao hiệu quả chương trình giảm nghèo bền vững trong giai đoạn 2026-2030, Bộ xác định một số định hướng lớn. Thứ nhất, đổi mới phương thức lãnh đạo, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương trong tổ chức thực hiện. Thứ hai, rút ngắn thời gian ban hành cơ chế, chính sách và văn bản hướng dẫn, bảo đảm kịp thời, đồng bộ ngay khi chương trình được phê duyệt.
Thứ ba, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong rà soát, xác định đối tượng thụ hưởng cũng như theo dõi, giám sát kết quả. Thứ tư, tiếp tục đầu tư hạ tầng thiết yếu ở địa bàn nghèo, ưu tiên công trình mang tính liên kết vùng. Thứ năm, nhân rộng các mô hình sinh kế bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu, gắn với chuyển dịch cơ cấu việc làm và kết nối thị trường lao động.
Có thể nói, trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, công tác giảm nghèo đa chiều giai đoạn 2026-2030 đòi hỏi những cách tiếp cận và giải pháp mới, phù hợp và hiệu quả hơn. Với kết quả đã đạt được, cùng sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, chúng ta có cơ sở tin tưởng rằng chương trình giảm nghèo bền vững sẽ tiếp tục phát huy hiệu quả, giúp các hộ nghèo vươn lên thoát nghèo, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Chống tái nghèo là một thách thức lớn trong công tác giảm nghèo bền vững. Để giải quyết vấn đề này, cần sự chung tay của chính quyền, doanh nghiệp và cả cộng đồng. Quan trọng nhất, người dân cần có ý chí tự lực vươn lên, chủ động thay đổi để thoát nghèo bền vững.