I. Những điểm sáng đáng ghi nhận trong phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025
Sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 phê duyệt Đề án tổng thể và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi 2021-2030, giai đoạn I từ năm 2021 đến năm 2025. Theo các nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, tổng mức vốn để thực hiện Chương trình giai đoạn I là trên 137.000 tỷ đồng, cao hơn gần 1,03 lần so với tổng vốn của cả 2 chương trình mục tiêu quốc gia còn lại và đạt tỉ lệ giải ngân khá trong các chương trình mục tiêu quốc gia nói chung. Riêng 7 tháng đầu năm 2025, ước giải ngân Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đạt 46% kế hoạch.
Chương trình nhận được sự đồng thuận rất cao và tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị, tinh thần trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn thể đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Mặc dù triển khai chậm 1,5 năm do đại dịch COVID-19, nhìn chung Chương trình trong giai đoạn I đã cơ bản đạt và vượt 6/9 mục tiêu, nhóm mục tiêu đề ra; cụ thể, mục tiêu về tỉ lệ giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số đạt bình quân 3,4% so với mục tiêu là 3,2%; thu nhập bình quân dự kiến cuối năm 2025 đạt 45,9 triệu đồng/người, tăng 3,3 lần so năm 2020 và tăng trên 2 lần so với mục tiêu; giáo dục, lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp ước đạt 57,8% so với mục tiêu chương trình là 50%; các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc được bảo tồn và phát triển; công tác y tế, chăm sóc sức khỏe được tăng cường, dịch bệnh tiếp tục được khống chế, từng bước loại bỏ …
Đặc biệt, Chương trình đã hoàn thành vượt tiến độ hơn 200% đối với mục tiêu của Chương trình về xoá nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn khó khăn nhất, "lõi nghèo" của cả nước. Chương trình đã hỗ trợ nhà ở cho 42.567 hộ; hỗ trợ trực tiếp đất sản xuất cho 13.387 hộ; hỗ trợ chuyển đổi nghề cho 54.899 hộ; hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán cho 479.358 hộ; đầu tư xây dựng 809 công trình nước sinh hoạt tập trung. Quy hoạch, sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết cho 25.056 hộ; các địa phương đã triển khai hỗ trợ khoán bảo vệ 1.478.962 ha diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, tương đương 323.769 hộ được hỗ trợ; triển khai 403 dự án hỗ trợ phương thức sản xuất theo chuỗi giá trị, với tổng giá trị lên tới 306 tỷ đồng; triển khai hỗ trợ 383 dự án, mô hình chăn nuôi, trồng trọt với 36.654 hộ tham gia.
Ngoài ra, Chương trình triển khai hỗ trợ đầu tư 6.018 công trình giao thông nông thôn, 8.673 km đường giao thông được nhựa hoá, bê tông hoá hoặc cứng hoá; 442 công trình cung cấp điện; 90 trạm chuyển tiếp phát thanh xã; 1.787 nhà sinh hoạt cộng đồng; cải tạo, sửa chữa 183 trạm y tế xã; hỗ trợ trang thiết bị 118 trạm y tế xã; 225 trạm y tế xã và 629 công trình trường, lớp học đạt chuẩn; hỗ trợ 1.901 mô hình đào tạo nghề với 115.575 người lao động tham gia; 5.385 người lao động được hỗ trợ tham gia khóa đào tạo bồi dưỡng kỹ năng nghề, ngoại ngữ và các thủ tục đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; 37.718 người lao động được hỗ trợ giới thiệu, tư vấn về đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng…
Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nhận được sự đồng thuận rất cao và tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị, tinh thần trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn thể đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (Ảnh minh hoạ)
Tại các địa phương, đã hỗ trợ đầu tư xây dựng, bảo tồn 48 làng, bản và 69 điểm đến du lịch tiêu biểu truyền thống của các dân tộc thiểu số, có 4.409 nhà văn hóa/khu thể thao tại các thôn, bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được đầu tư xây dựng và hỗ trợ trang thiết bị, tu bổ, tôn tạo; bảo tồn, phát huy 124 lễ hội truyền thống tiêu biểu của các dân tộc thiểu số; hỗ trợ hoạt động cho 695 câu lạc bộ sinh hoạt văn hóa dân gian và 5.760 đội văn nghệ truyền thống tại các thôn, bản…
Bên cạnh đó, trong giai đoạn I vẫn còn 3/9 nhóm mục tiêu Chương trình chưa đạt kế hoạch, gồm: Cải thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội ở các xã, thôn đặc biệt khó khăn; số xã, thôn ra khỏi địa bàn đặc biệt khó khăn; công tác định canh, định cư, giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào. Hơn nữa, trên thực tế, kết quả đạt được chưa thật vững chắc, nguy cơ tái nghèo cao và còn một số hạn chế về chất lượng lượng cán bộ và tiến độ ban hành văn bản…
II. Trọng tâm và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn giai đoạn II (2026-2030)
Theo chỉ đạo của Chính phủ, giai đoạn II (2026-2030) của Chương trình sẽ được bố trí khoảng 150.000-160.000 tỷ đồng (cao hơn gần 1,2 lần giai đoạn I).
Để phấn đấu hoàn thành toàn bộ mục tiêu của Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 đã được xác định tại Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế và tổ chức thực hiện đồng bộ của cả hệ thống chính trị, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp, ngành, địa phương liên quan, cụ thể:
Thứ nhất, duy trì độc lập chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, cả hệ thống chính trị phải vào cuộc, đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm theo hướng tiếp cận toàn dân, toàn diện; hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi và thiết kế công cụ, tăng cường giám sát, kiểm tra; có cơ chế, chính sách tăng cường liên kết giữa các dân tộc thiểu số và giữa các dân tộc thiểu số với cộng đồng người Kinh; bảo đảm bình đẳng, nhưng đặc biệt chú ý các dân tộc dễ bị tổn thương; cụ thể hoá các mục tiêu theo lộ trình phù hợp, thiết thực, khả thi, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra, giám sát và đánh giá; đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước;
Thứ hai, đa dạng hoá và phối hợp hiệu quả các nguồn lực xã hội, khẩn trương hoàn thiện sửa đổi, bổ sung quy định về nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương và tỷ lệ vốn đối ứng của ngân sách địa phương để làm cơ sở triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; làm rõ phương án xử lý đối với phần kinh phí thường xuyên còn lại chưa phân bổ, tránh gây thất thoát, lãng phí nguồn lực; sử dụng nguồn lực NSNN để bảo đảm tính bền vững trong phát triển, ưu tiên cho cơ sở hạ tầng thiết yếu (giao thông, viễn thông, điện, nước), kiên cố hóa trường học (trong đó có trường học cho 248 xã biên giới) và bảo đảm sự tiếp cận bình đẳng y tế, văn hóa, giáo dục, nhất là y tế cơ sở, y tế dự phòng và các cơ hội phát triển, với tinh thần không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển đất nước;
Thứ ba, chú trọng phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tạo hệ sinh thái khuyến khích liên kết chuỗi sản xuất trong nước và toàn cầu giữa các doanh nghiệp - ngân hàng - các hộ gia đình, hợp tác xã; phát triển hộ kinh doanh thành doanh nghiệp, doanh nghiệp nhỏ thành doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp lớn thành doanh nghiệp đa quốc gia; khuyến khích tạo việc làm, sinh kế và tinh thần tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu, xây dựng thương hiệu, quy hoạch vùng trồng nguyên liệu bài bản gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ;
Chú trọng phát triển thị trường hàng hoá, tạo sinh kế bền vững cho đồng bào (Ảnh minh hoạ)
Thứ tư, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đi đôi với giữ gìn, bảo tồn và phát huy nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, tiếng nói, chữ viết của các dân tộc, góp phần phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí, biến văn hóa thành nguồn lực, di sản thành tài sản, đồng bào được hưởng thụ văn hóa nhiều hơn.
Thứ năm, xây dựng và chủ động các phương án ứng phó biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai và chương trình an sinh xã hội thiết thực, cụ thể, bám sát tình hình thực tế; gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc; phát huy uy tín, vai trò tiên phong của già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo, người có uy tín;
Thứ sáu, thực hiện tốt công tác thông tin, truyền thông, tuyên truyền, ứng dụng công nghệ thông tin; thiết kế công cụ đo lường để giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ ngành và vào cuộc của các địa phương; tăng cường kiểm tra, giám sát, tháo gỡ khó khăn; phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc trong phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc…
Thứ bẩy, thực tế cho thấy, động lực và kỳ vọng phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã, đang và sẽ được khai thác hiệu quả và sớm hiện thực hoá khi có chủ trương đúng và trúng, ý Đảng hợp lòng dân; sự gương mẫu vào cuộc của người đứng đầu, sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương trong hệ thống chính trị đồng bộ, chặt chẽ, nhất quán, hiệu quả; luôn bám sát thực tiễn, quyết sách đi liền với ngân sách và đầu tư có trọng tâm trọng điểm, tránh manh mún, chia cắt, lợi ích nhóm và tắc trách, vô cảm, thủ tục hành chính rườm rà;
Đặc biệt, sự thành công sẽ càng to lớn hơn khi được nhân dân đồng tình, doanh nghiệp ủng hộ, quân đội, công an vào cuộc tích cực, với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt theo tinh thần "nghĩ thật, nói thật, làm thật, hiệu quả thật, nhân dân được thụ hưởng thật"; Đồng thời, phát huy tính tự lực, tự cường của đồng bào, đồng lòng xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu từ bàn tay, khối óc, mảnh đất của mình…/.
Ở Việt Nam, sau sắp xếp địa giới hành chính và tổ chức bộ máy chính quyền địa phương 02 cấp, cả nước có khoảng 1.516 xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, với tổng số trên 14,4 triệu người phân bổ trên địa bàn 32 tỉnh, thành phố, chiếm khoảng 3/4 diện tích tự nhiên của cả nước…
Do chủ yếu ở các khu vực núi cao, biên giới, giàu tiềm năng và lợi thế về kinh tế nông lâm nghiệp, khoáng sản, thủy điện, du lịch sinh thái, thương mại qua biên giới và có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, nhưng khí hậu khắc nghiệt, địa hình bị chia cắt mạnh, giao thông đi lại khó khăn, thường xuyên gặp sự cố sạt thiên tai lở do lũ ống, lũ quét, nên vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn gặp nhiều khó khăn, hạ tầng kinh tế - xã hội chưa phát triển, tỷ lệ hộ nghèo cao, tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, văn hoá hạn chế…
Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là trách nhiệm, nghĩa vụ, tình cảm sâu sắc, mệnh lệnh trái tim và là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta, có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội sâu sắc đối với sự phát triển nhanh, bền vững đất nước.
Tài liệu tham khảo: