Việt Nam đối mặt "bài toán" sản xuất ethanol
Phát biểu trong Hội thảo quốc tế về nhiên liệu sinh học tại Việt Nam năm 2025 với chủ đề “Phát triển nhiên liệu sinh học trong thời kỳ mới - Những nhiệm vụ trọng tâm để kiến tạo tương lai nhiên liệu bền vững cho Việt Nam”, ông Gabriel Ho, Trung tâm Nhiên liệu xanh toàn cầu (CCGF) cho biết, trong xu thế toàn cầu, TGCGF nhận định việc áp dụng tiêu chuẩn xăng carbon thấp (LCG) với ba loại xăng pha ethanol bắt buộc E5, E10 và E20 sẽ trở thành chuẩn mực tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Ông Gabriel Ho, Trung tâm Nhiên liệu xanh toàn cầu (CCGF) phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Cấn Dũng
Động thái này hướng tới mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, tiết kiệm chi phí nhiên liệu và củng cố an ninh năng lượng cho các nền kinh tế. Để đáp ứng tiêu chuẩn, lượng ethanol cần thiết có thể vượt 15 triệu tấn mỗi năm, đánh dấu một bước tiến quan trọng trên con đường xây dựng hệ thống năng lượng bền vững.
Thị trường ethanol thế giới hiện đạt 129 tỷ lít vào năm 2025, tăng so với mức 110 tỷ lít của năm 2023. Mỹ và Brazil chiếm ưu thế nhờ năng lực sản xuất linh hoạt, cơ sở hạ tầng cảng biển hiện đại cùng khả năng thích ứng theo tín hiệu giá. Các luồng xuất khẩu từ Vịnh Mexico của Mỹ hay các cảng phía Nam Brazil luôn ổn định và đóng vai trò đầu mối cung cấp cho châu Á, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Ấn Độ và Philippines.
“Đặt trong bối cảnh đó, Việt Nam đã bắt đầu quá trình chuyển đổi từ E5 sang E10. Đây là bước đi tất yếu để hòa nhịp với thế giới, song cũng đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng về hạ tầng logistics và phân phối”, ông Gabriel Ho nhấn mạnh.
Cũng theo ông Gabriel Ho, chuỗi cung ứng nhiên liệu trong nước đang đứng trước áp lực lớn bởi lượng ethanol cần nhập khẩu và pha trộn tăng gấp đôi. Các cảng và kho chứa tại miền Bắc, miền Trung, miền Nam như Nhà Bè, Đức Giang buộc phải mở rộng năng lực lưu trữ và cải tiến kỹ thuật nhằm đáp ứng yêu cầu an toàn, nhất là khi ethanol có tính dễ cháy và hút ẩm cao. Việc nâng cấp bể chứa bằng lớp lót kháng ethanol, lắp đặt hệ thống thu hồi hơi, bơm tương thích và bọt chữa cháy kháng cồn trở thành nhiệm vụ bắt buộc.
Thực tiễn quốc tế cho thấy, các cảng châu Âu như Stanlow hay Amsterdam đã lựa chọn giải pháp phủ lại bể cũ thay vì xây mới để tiết kiệm chi phí, đồng thời bổ sung kết nối đường sắt nhằm tăng khả năng dự phòng và xử lý rủi ro.
Hiện nay, Việt Nam sở hữu 217 kho chứa dầu với tổng dung tích 6,38 triệu m³, đủ cho 36 ngày dự trữ thương mại. Petrolimex chiếm khoảng 50% thị phần, bên cạnh PV Oil và một số doanh nghiệp tư nhân. Phương thức vận chuyển đa dạng từ đường ống, tàu ven biển, sà lan, xe bồn cho phép linh hoạt phân phối đến cả vùng sâu vùng xa.
Tuy nhiên, việc tăng tỷ lệ ethanol trong xăng E10 vẫn tạo ra nhiều sức ép. Năng lực bơm nạp phải được nâng cấp để tránh tắc nghẽn, các kho cảng cần bổ sung bể chứa và thiết bị giám sát thời gian thực nhằm bảo đảm chất lượng nhiên liệu. Song song với đó, công tác phòng cháy chữa cháy cũng phải thích ứng với đặc thù ethanol cháy không khói, ngọn lửa gần như vô hình, đòi hỏi hệ thống đầu báo UV/IR và bọt AR-AFFF chuyên dụng. Nhân viên vận hành cần được đào tạo về đặc điểm cháy, xử lý sự cố tràn đổ và kiểm soát ô nhiễm để giảm thiểu rủi ro môi trường.
"Bài toán" sản xuất ethanol trong nước và nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng
Nếu như logistics và hạ tầng bán lẻ là điều kiện cần, sản xuất trong nước lại là điều kiện đủ để Việt Nam tiến tới triển khai E10 bền vững. Ông Gabriel Ho cho biết, sắn - nguồn chính để sản xuất ethanol vốn là lợi thế của Việt Nam với diện tích canh tác 500.000 đến 550.000 ha, sản lượng trên 10 triệu tấn mỗi năm. Sắn Việt Nam có hàm lượng tinh bột cao, đạt trên 30%, thích hợp để sản xuất ethanol quy mô lớn. Tuy nhiên, sự khác biệt vùng miền, nguy cơ từ virus khảm lá sắn và biến động giá đã khiến chuỗi cung ứng nguyên liệu thiếu ổn định.
Tuy có lợi thế về vùng trồng sắn nhưng Việt Nam lại gặp khó trong việc duy trì sản lượng, chất lượng và giá. Ảnh minh họa
Thực tế, biến động giá sắn trong nhiều thập kỷ qua luôn là "bài toán" nan giải. Năm 1995, giá sắn tươi đạt 500 đồng/kg, nhưng chỉ một năm sau đã giảm một nửa rồi bật tăng trở lại. Từ 2007 đến 2013, giá sắn cắt lát sấy khô tăng gấp đôi do nhu cầu nhập khẩu ngô từ Trung Quốc, dẫn đến mở rộng diện tích và cả tình trạng phá rừng. Đến giai đoạn 2020 - 2021, giá sắn tươi lập đỉnh 3.100 - 3.400 đồng/kg, gây áp lực chi phí lớn cho các nhà máy ethanol.
Sự thiếu ổn định này đã khiến nhiều dự án ethanol đình trệ. Dung Quất, Bình Phước, Phú Thọ từng được kỳ vọng trở thành hạt nhân của ngành nhiên liệu sinh học nhưng đều thất bại vì thua lỗ, nợ nần và dở dang. Nguyên nhân xuất phát từ chi phí nguyên liệu cao, thị trường tiêu thụ xăng E5 yếu, cùng với sự chậm trễ trong chính sách pháp lý. Một số nhà máy như Đại Tân ở Quảng Nam hay Tùng Lâm ở Đồng Nai phải hoạt động cầm chừng, thậm chí chuyển sang sản xuất cồn công nghiệp và y tế để tồn tại.
"Bài toán" sản xuất ethanol tại Việt Nam hiện tồn tại nghịch lý, đó là lợi thế nguyên liệu sắn lớn nhưng thiếu ổn định, nhu cầu tiêu thụ trong nước thấp, hạ tầng chuỗi cung ứng chưa đồng bộ và cơ chế hỗ trợ chưa đủ mạnh.
“Nếu muốn triển khai E10 thành công, cần khôi phục lại các nhà máy ethanol bằng cách tái cấu trúc sở hữu, nâng cấp công nghệ và gắn kết với mạng lưới phân phối nhiên liệu để bảo đảm đầu ra. Đồng thời, Việt Nam phải thúc đẩy mô hình canh tác theo hợp đồng, áp dụng chương trình bình ổn giá, nghiên cứu giống sắn kháng bệnh để ổn định nguồn cung. Bên cạnh đó, việc đa dạng hóa nguyên liệu với mật mía, phụ phẩm nông nghiệp và nhiên liệu sinh học thế hệ mới sẽ giúp giảm rủi ro phụ thuộc vào sắn”, ông Gabriel Ho đề xuất.
Bên cạnh đó, theo đại diện Trung tâm Nhiên liệu xanh toàn cầu, hạ tầng logistics và phân phối cũng cần được đầu tư đồng bộ. Chẳng hạn như tập trung nhập khẩu ethanol tại những cảng nước sâu như Quảng Ninh, Vũng Tàu, Vân Phong để tận dụng lợi thế tàu lớn, giảm chi phí vận chuyển và có thể tái xuất lượng dư thừa. Nâng cấp bể chứa, đường ống, xe bồn nhiều ngăn phục vụ pha trộn tại chỗ và tăng công suất sà lan vận chuyển ethanol tại Đồng bằng sông Cửu Long là hướng đi cần thiết. Đặc biệt, Nhà nước cần ban hành cơ chế hỗ trợ thuế, trợ giá tạm thời và thực thi nghiêm quy định pha trộn để bảo đảm ethanol đủ sức cạnh tranh với xăng khoáng.
Triển khai E10 không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà còn là câu chuyện chiến lược lâu dài. Ethanol chỉ thực sự trở thành “nhiên liệu xanh” khi được gắn kết bằng chuỗi cung ứng khép kín, từ nông dân trồng sắn, nhà máy sản xuất, doanh nghiệp phân phối đến các trạm bán lẻ.