Sau gần bốn thập niên thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong mối quan hệ với FDI vẫn còn hạn chế. Trong bối cảnh Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị khẳng định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất, việc đánh giá và nhìn nhận đúng mối quan hệ giữa FDI và kinh tế tư nhân trở thành yêu cầu cấp bách.
Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành vào tháng 12/1987 đã chính thức mở ra một chương mới trong phát triển kinh tế, xã hội. Trải qua gần 40 năm, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã khẳng định vị trí là một trong những nguồn lực quan trọng, đồng thời đặt ra yêu cầu mới làm sao để kết nối được sức mạnh nội sinh của kinh tế tư nhân Việt Nam với dòng vốn quốc tế, biến FDI thành chất xúc tác cho sự lớn mạnh của doanh nghiệp trong nước thay vì chỉ là lực đẩy bên ngoài.
Nguồn vốn quan trọng trong phát triển kinh tế
So sánh Việt Nam hôm nay với thời điểm cách đây gần 40 năm cho thấy sự thay đổi mang tính bước ngoặt. Từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở hạ tầng bị tàn phá sau chiến tranh, Việt Nam đã trở thành một trong những nền kinh tế mới nổi năng động của thế giới.
Nguồn vốn quốc tế không chỉ góp phần bổ sung vốn đầu tư phát triển xã hội, mà còn tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng.
Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), đến năm 2025, quy mô kinh tế Việt Nam đạt 506 tỷ USD, đứng thứ 33 toàn cầu. Trong thành công này, FDI là một trụ cột quan trọng. Nguồn vốn quốc tế không chỉ góp phần bổ sung vốn đầu tư phát triển xã hội, mà còn tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, gia tăng nguồn thu ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, nhìn kỹ vào cơ cấu thu hút FDI cũng lộ rõ điểm nghẽn. Các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó khu vực tư nhân chiếm đa số, mới chỉ tham gia ở mức rất khiêm tốn trong hợp tác với FDI.
Theo số liệu thống kê về Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) tại Việt Nam đến nay cho thấy tỷ trọng các dự án 100% vốn nước ngoài vẫn áp đảo, chiếm trên 72% tổng vốn đăng ký, trong khi liên doanh chỉ khoảng 22% và các hình thức BOT, BT, BTO, M&A chiếm phần còn lại khoảng 6%. Tại một số địa phương, dự án 100% vốn nước ngoài còn chiếm tới trên 90%. Điều này có nghĩa là phần lớn dự án FDI tại Việt Nam không có sự tham gia đáng kể của doanh nghiệp trong nước.
Vốn FDI cấp mới hàng năm vẫn là các dự án 100% vốn nước ngoài, đặc biệt trong các ngành sản xuất, chế tạo, cho thấy vai trò của các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, còn rất nhỏ bé trong hợp tác đầu tư nước ngoài nếu không nói là quá yếu. Điều đó dẫn tới hạn chế lớn trong việc tiếp thu công nghệ, học hỏi kinh nghiệm quản trị và tận dụng FDI như một bệ phóng để phát triển doanh nghiệp Việt, cũng như phát triển kinh tế Việt Nam.
Báo cáo của VCCI gửi Thủ tướng Chính phủ tháng 10/2024 đã chỉ ra bức tranh toàn cảnh. Trong hơn 930 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, có đến 98% là doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa; chỉ khoảng 2% đạt quy mô lớn. Đây chính là nguyên nhân cốt lõi khiến kinh tế tư nhân Việt Nam còn “quá nhỏ bé” trong hợp tác với FDI, đồng thời chưa đủ sức vươn lên thành những đầu tàu nội lực có khả năng dẫn dắt ngành, lĩnh vực và cạnh tranh ngang bằng với khối doanh nghiệp FDI.
Sức bật mới của nền kinh tế
Trước thực trạng còn yếu của kinh tế tư nhân Việt Nam, cần nhìn thẳng vào sự thật để tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, từ đó đưa ra giải pháp khắc phục giúp doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, vượt qua thách thức và phát triển. Một đề xuất đáng chú ý dựa trên truyền thống dân gian “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, hay tinh thần “Đoàn kết, Đoàn kết, Đại đoàn kết” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định, cho thấy sức mạnh tập thể là yếu tố quyết định. Lời ca “Kết đoàn” vẫn vang vọng trong những dịp Người gặp gỡ công - nông - trí thức, nhắc nhở rằng đoàn kết chính là sức mạnh nội sinh.
Trong tinh thần ấy, việc các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam liên kết với nhau thành những nhóm doanh nghiệp (Group of Companies) có thể mang lại bước chuyển lớn. Khi hợp lực, họ sẽ có nguồn tài chính dồi dào hơn, năng lực quản lý tốt hơn, kiến thức kinh tế sâu rộng hơn và khả năng quan hệ đối ngoại mạnh mẽ hơn. Trên nền tảng đó, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam mới đủ sức hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài, phá vỡ hiện trạng dự án 100% vốn nước ngoài chiếm áp đảo trên 70% trong đầu tư FDI tại Việt Nam.
Vai trò của doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có doanh nghiệp tư nhân trong dòng vốn FDI vẫn còn khiêm tốn.
Khi tham gia liên doanh với nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận trực tiếp công nghệ cao, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, từ đó phát triển nhanh hơn và thậm chí tiến tới đầu tư ra nước ngoài.
Thực tế đã có những doanh nghiệp như FPT, Vingroup hay Vinamilk bước đầu chứng minh khả năng đầu tư xuyên biên giới. Trong tương lai, khi doanh nghiệp Việt Nam đi bằng cả “hai chân”, vừa thu hút FDI, vừa triển khai OFDI, sẽ tạo động lực để Việt Nam tiến xa hơn, đạt hiệu quả kinh tế cao hơn trong giai đoạn tới.
Để khắc phục tình trạng trên, Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 4/5/2025 “về phát triển kinh tế tư nhân và kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết” được xem là một bước ngoặt trong tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn. Nghị quyết khẳng định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao khu vực này là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và chiến lược lâu dài.
Nghị quyết cũng chỉ rõ phải xóa bỏ triệt để định kiến với kinh tế tư nhân, coi doanh nhân là những chiến sĩ trên mặt trận kinh tế, đồng thời kiến tạo môi trường kinh doanh minh bạch, thông thoáng, bảo đảm khả năng cạnh tranh khu vực và toàn cầu, thúc đẩy khởi nghiệp, làm giàu hợp pháp và đóng góp cho đất nước.
Chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khi triển khai Nghị quyết 68 cũng nhấn mạnh một điểm then chốt, sức bật mới của nền kinh tế Việt Nam sẽ đến từ khu vực tư nhân. Đây là sự tiếp nối nhất quán tư duy từ Đại hội VIII của Đảng, nơi định hướng “Khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế” và “phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh ngang tầm mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong thời kỳ mới, xây dựng đội ngũ doanh nhân dân tộc”.
Từ chỉ đạo cụ thể của Đảng nêu trên nhằm phát triển nhanh kinh tế tư nhân Việt Nam đáp ứng nhu cầu phát triển hiệu quả nền kinh tế Việt Nam cho thấy: “sức bật của kinh tế Việt Nam sẽ đến từ khu vực tư nhân, khu vực này ngày càng khẳng định vai trò là động lực tăng trưởng then chốt. Với sự đồng hành của chính sách minh bạch, hội nhập sâu rộng vào dòng vốn quốc tế, kinh tế tư nhân sẽ là cánh tay kéo Việt Nam tiến nhanh hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu”.
Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 4/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân và kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết” được xem là một bước ngoặt trong tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn. Nghị quyết khẳng định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao khu vực này là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và chiến lược lâu dài.