Từ nuôi dê, trồng keo đến làm giàu nhờ nhung hươu
Trước đây, anh Nguyễn Văn Quế, xã Thiện Hưng (tỉnh Đồng Nai) chăn nuôi dê nhưng hiệu quả kinh tế thấp, mỗi năm chỉ lãi vài chục triệu đồng. Sau khi tìm hiểu trên mạng xã hội, anh Quế quyết định chuyển hướng sang nuôi hươu sinh sản kết hợp lấy nhung – mô hình mới mẻ nhưng đầy tiềm năng.
Nuôi hươu lấy nhung - mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao
Tận dụng diện tích đất rộng, anh Quế xây chuồng trại khoảng 150m², nền xi măng có độ dốc thoát nước, thoáng mát mùa hè, ấm áp mùa đông. Ban đầu, anh nuôi thử 6 con để nắm bắt tập tính sinh trưởng. Nhờ kiên trì, đến nay đàn hươu đã phát triển hơn 20 con, trong đó có 8 con đực cho khai thác nhung.
Anh Quế cho biết, hươu dễ nuôi, ít bệnh, chủ yếu ăn các loại rau, củ, cỏ trong vườn nên chi phí thấp, chỉ bằng một phần ba so với nuôi bò. Hươu đực từ 24 tháng tuổi có thể cho 250–300g nhung. Sau 5 năm, nhung đạt khoảng 800g/con, giá bán từ 23–25 triệu đồng/kg. “Nhung hươu giá cao nhưng khan hàng. Một cặp nhung trung bình đã khoảng 18 triệu đồng, cặp to còn có giá cao hơn. Mùa khai thác chính là từ tháng 2 đến tháng 6 hằng năm”, anh chia sẻ.
Ngoài nhung, anh còn nuôi hươu sinh sản để bán giống. Hươu cái mang thai khoảng 7,5 tháng, mỗi lứa đẻ 1 con. Hươu giống 6 tháng tuổi hiện có giá 15–17 triệu đồng/con, thịt hươu thương phẩm khoảng 450.000 đồng/kg. Nhờ kết hợp vừa lấy nhung vừa bán giống, sau khi trừ chi phí, mỗi năm gia đình anh lãi gần 200 triệu đồng.
Sau 8 năm gắn bó với nghề, anh Quế khẳng định mô hình này “lấy công làm lãi”, dễ quản lý, phù hợp cả với hộ ít đất. Anh dự định sẽ tiếp tục mở rộng quy mô trong thời gian tới.
Gần ba năm nay, mỗi sáng sớm ở thôn ADuông (xã Đông Giang, TP. Đà Nẵng), anh Ating Bơi lại đều đặn bắt đầu ngày mới bằng việc chăm sóc đàn hươu. Đây là kết quả từ mô hình chăn nuôi hươu lấy nhung mà anh mạnh dạn tham gia sau khi được tiếp cận chương trình tập huấn do xã phối hợp với HTX Đầu tư và Phát triển nhung hươu Hương Sơn triển khai.
Ban đầu, anh Bơi được hỗ trợ 5 con giống cùng gói tập huấn kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm đầu ra. Sau 2 mùa khai thác, anh đã thu được hơn 5kg nhung, bán với giá trên 10 triệu đồng. “So với trồng keo, chăn nuôi hươu thu nhập ổn định và ít rủi ro hơn”, anh chia sẻ.
Liên kết cùng HTX nuôi hươu lấy nhung giúp tăng thu nhập cho người dân xã Đông Giang.
Không chỉ anh Bơi, nhiều hộ dân ở thôn ADuông cũng liên kết với HTX Hương Sơn để nuôi hươu lấy nhung. Dù cách xa hàng trăm cây số, HTX vẫn thường xuyên cử cán bộ về hướng dẫn kỹ thuật, cung ứng con giống và bao tiêu sản phẩm.
Nhờ vậy, mô hình đã nhanh chóng lan tỏa. Từ vài hộ ban đầu, đến nay toàn xã Đông Giang có 25 hộ tham gia với hơn 150 con hươu, riêng thôn ADuông có 10 hộ nuôi khoảng 50 con. Những chuồng trại được xây dựng từ năm 2023 đã bắt đầu mang lại nguồn thu ổn định cho người dân.
Điểm đặc biệt là 100% nhung hươu thu hoạch đều được HTX thu mua kịp thời, giúp người dân yên tâm sản xuất, không lo bị thương lái ép giá. Nhờ liên kết chặt chẽ này, bà con xã Đông Giang vừa đảm bảo đầu ra với giá cao hơn mặt bằng chung, vừa giảm rủi ro trong tiêu thụ.
Thoát nghèo: Cần gỡ rào cản liên kết và thị trường
Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy cho biết, trong công tác giảm nghèo bền vững hiện nay, các rào cản lớn nhất có thể gom thành 4 nhóm. Thứ nhất, về nguồn lực, người nghèo khó tiếp cận tín dụng ngân hàng; vốn hỗ trợ nhỏ giọt, chưa đủ để hình thành mô hình kinh tế. Về kiến thức, kỹ năng, nhiều hộ chưa quen với kỹ thuật sản xuất mới, quản lý tài chính, kinh doanh; ít cơ hội được đào tạo nghề.
Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy. Ảnh: Phạm Hùng
Thứ hai, là rào cản về thị trường và liên kết. Đầu ra bấp bênh, nông sản làm ra khó tiêu thụ, dễ rơi vào cảnh ế thừa bị ép giá và không đủ sản phẩm để kết nối với doanh nghiệp, thương lái và các kênh bán hàng. “Trong rào cản này, tôi nhấn mạnh khi nông dân, HTX thiếu kết nối với doanh nghiệp thì doanh nghiệp rất ngại đầu tư vùng nghèo vì hạ tầng kém, chi phí cao, rủi ro lớn”, ông Hoàng Trọng Thủy nói.
Thứ ba, rào cản về văn hóa – xã hội. Theo đó, tâm lý trông chờ, ỷ lại của một bộ phận người nghèo quen với trợ cấp, chưa mạnh dạn tự chủ. Nhiều vùng đồng bào dân tộc quen canh tác truyền thống, ngại thay đổi.
Thứ tư, rào cản về hạ tầng và điều kiện tự nhiên. Bởi khi đường sá, điện, nước, internet chưa thuận lợi, sẽ làm tăng chi phí sản xuất, vận chuyển, nông sản miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số không đủ sức cạnh tranh với các địa phương ven đô thị, khu công nghiệp. Đồng thời, do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, thường xuyên chịu thiên tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh… khiến sinh kế dễ bị đứt gãy. Điều này, đồng nghĩa với người nghèo không có khoản thu về tài chính để mở rộng sản xuất, chi tiêu cho y tế, giáo dục, nước sạch... dẫn đến, cái nghèo đói vẫn cứ là một vòng tròn quẩn quanh, khó lối thoát...
Trong đó, bài toán khó nhất trong phát triển kinh tế vùng cao chính là đầu ra sản phẩm và kỹ năng sản xuất hạn chế của người dân. Do đó, khi địa phương làm cầu nối và HTX, doanh nghiệp cam kết đồng hành, liên kết chuỗi giá trị sẽ là hướng đi bền vững, tạo sinh kế ổn định, từng bước xóa bỏ tư duy sản xuất manh mún nhỏ lẻ. Trong đó, Mô hình nuôi hươu lấy nhung không chỉ tạo sinh kế mới mà còn giúp nhiều hộ nâng cao thu nhập, từng bước thoát nghèo bền vững.
“Bài toán khó nhất ở vùng cao vẫn là đầu ra và kỹ năng sản xuất hạn chế. Vì vậy, khi chính quyền làm cầu nối, HTX và doanh nghiệp cam kết đồng hành, liên kết chuỗi giá trị sẽ là hướng đi bền vững, giúp nông dân có sinh kế ổn định, thoát khỏi vòng luẩn quẩn của nghèo đói”, ông Thủy khẳng định.