Điều này thể hiện quyết tâm chính trị cao đưa nước ta nhanh chóng vươn mình tiến đến mục tiêu “Đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.
Nhiều cơ hội
Việt Nam đang trong giai đoạn dân số vàng (giai đoạn cuối), có lợi thế dân số trẻ, tỷ lệ tiếp cận internet cao.
Lợi thế người đi sau, có thể tận dụng tiến bộ khoa học - công nghệ để đi tắt đón đầu.
Vị trí địa chiến lược nằm giữa tuyến hàng hải Á-Âu, gần chuỗi cung ứng Đông Á.
Sự dịch chuyển của dòng vốn FDI và chuỗi cung ứng toàn cầu. Việt Nam là điểm đến hàng đầu, có cơ hội tham gia sâu vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.
Cơ hội phát triển các ngành công nghiệp công nghệ số (như bán dẫn, điện tử, AI, blockchain).
Cơ hội phát triển công nghiệp xanh, năng lượng mới, năng lượng tái tạo.
Các thách thức
Thứ nhất, tăng trưởng GDP cao khi quy mô nền kinh tế lớn. Thường các nước đạt tăng trưởng cao ở giai đoạn đầu của bứt phá, khi quy mô nền kinh tế còn nhỏ. Ví dụ như Nhật Bản thập niên 1960 - 1970, Hàn Quốc thập niên 1970 - 1990, Trung Quốc thập niên 1990 - 2000.
Trong giai đoạn đầu đổi mới khi quy mô nền kinh tế còn nhỏ (khoảng 10-20 tỷ USD vào đầu thập niên 1990), Việt Nam cũng chỉ đạt tăng trưởng cao nhất là 9,5% năm 1995. Nay sau 40 năm đổi mới, quy mô nền kinh tế hiện đạt gần 500 tỷ USD (xếp thứ 33/240 trên thế giới). Với quy mô đó, mục tiêu tăng trưởng 10% trở lên là không dễ.
Việt Nam hiện là cường quốc xuất khẩu với kim ngạch xuất khẩu cao (Ảnh: Cấn Dũng)
Thứ hai, hiện mô hình tăng trưởng kinh tế cơ bản vẫn là truyền thống (xét cả về phía cung và cầu).
Về phía cung, đây là mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào vốn, lao động, tài nguyên (gồm cả đất đai), trong khi đóng góp của khoa học công nghệ (TFP) thấp. Nếu không có đột phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo để tăng đóng góp của TFP và năng suất lao động vào tăng trưởng thì khó đạt mục tiêu tăng trưởng cao.
Mô hình này dựa nhiều vào lao động, song hiện chủ yếu tay nghề thấp, nên khó đạt tăng trưởng cao.
Mô hình dựa nhiều vào vốn, nên để thúc đẩy tăng trưởng thường phải thực hiện chính sách tiền tệ và tài khóa mở rộng. Chính sách tiền tệ mở rộng (như tăng trưởng tín dụng cao, tăng tổng phương tiện thanh toán…) dẫn đến rủi ro về lạm phát và nợ xấu, hệ thống ngân hàng dễ sụp đổ. Chính sách tài khóa mở rộng (như tăng đầu tư công, vay nợ trong nước và nước ngoài) dẫn đến rủi ro nợ công và thâm hụt ngân sách cao
Về phía cầu, các động lực tăng trưởng hiện nay (xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng) sẽ rất khó khăn có thể tạo đột phá.
Xuất khẩu: Việt Nam hiện là cường quốc xuất khẩu với kim ngạch xuất khẩu cao (năm 2025 dự kiến đạt 430 - 450 tỷ USD, xếp thứ 20/240 trên thế giới). Song giá trị gia tăng xuất khẩu thấp. Nguyên nhân chính là do các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu chủ yếu là gia công, lắp ráp, còn nông sản, thủy sản chủ yếu xuất khẩu thô và không có thương hiệu.
Ngoài ra, các doanh nghiệp FDI chiếm đa phần kim ngạch xuất khẩu, chiếm 70-75% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Mô hình xuất khẩu kim ngạch lớn song giá trị gia tăng thấp đạt được lợi ích thấp (chủ yếu từ công lao động, tiền thuê đất và thuế của doanh nghiệp), trong khi đối mặt phải chịu nhiều rủi ro:
Thường trực nguy cơ bị các đối tác áp đặt biện pháp phòng vệ thương mại (do tốc độ tăng xuất khẩu nhiều mặt hàng cao).
Rủi ro từ rào cản thuế quan của các nước trong bối cảnh hệ thống thương mại đa phương đang suy yếu. Nguy cơ Việt Nam trở thành xưởng gia công lắp ráp và trung gian sản xuất của khu vực và thế giới.
Đầu tư: Hiện tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt mức cao (bằng gần 40% GDP), song hệ số ICOR (hệ số hiệu quả sử dụng vốn) cũng rất cao (xấp xỉ 7), cho thấy hiệu quả đầu tư chưa cao. Hiểu nôm na là bỏ ra 7 đồng vốn đầu tư mới thu được 1 đồng tăng trưởng kinh tế. Tức muốn tăng trưởng cao thì phải đầu tư rất lớn.
Tiêu dùng: Chi tiêu tiêu dùng còn thấp (30% GDP), khó khăn để thúc đẩy tăng trưởng.
Thứ ba, nội lực nền kinh tế khá yếu do dựa quá lớn vào FDI.
Thứ tư, chưa phát triển được nền công nghiệp mạnh. Chưa xây dựng được các ngành công nghiệp nền tảng. Chưa phát triển được công nghiệp hỗ trợ mạnh. Khu vực FDI chiếm 55-60% giá trị sản lượng công nghiệp.
Thứ năm, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa nhìn chung yếu. Hiện đã xây dựng được cộng đồng doanh nghiệp nội địa với một số doanh nghiệp lớn (như Vin Group, Sun Group, Thaco, Viettel, EVN, PVN…) và nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa (chiếm 98% tổng số). Song năng lực cạnh tranh của hầu hết doanh nghiệp yếu, cả trên thị trường thế giới và trong nước. Tỷ lệ doanh nghiệp nội địa tham gia chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu thấp, và có xu hướng giảm.
Thứ sáu, khu vực kinh tế tư nhân chưa phát huy hết tiềm năng.
Động lực nào để đạt tăng trưởng GDP 10% trở lên?
Do mô hình tăng trưởng truyền thống không thể thúc đẩy mức tăng trưởng cao như đã nêu, cần có mô hình tăng trưởng mới, là sự kết hợp giữa các các động lực tăng trưởng mới và các động lực tăng trưởng truyền thống được tổ chức lại.
Các động lực tăng trưởng mới gồm:
Thứ nhất, mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và năng suất lao động cao.
Thứ hai, các ngành kinh tế mới: kinh tế số, AI, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo, là các ngành Việt Nam có nhiều tiềm năng.
Thứ ba, các lĩnh vực dịch vụ. Do có vị trí chiến lược, Việt Nam có thể phát triển logistics, các cảng biển trung chuyển quốc tế, thậm chí trở thành trung tâm thương mại và logistic của ASEAN. Việt Nam cũng có tiềm năng phát triển bất động sản công nghiệp, và tạo các siêu đô thị công nghiệp – dịch vụ.
Các động lực tăng trưởng truyền thống được định hướng tổ chức lại gồm:
Xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hàm lượng công nghệ cao, tỷ lệ nội địa hóa cao, dựa trên nội lực là các doanh nghiệp nội địa.
Đầu tư cần hiệu quả hơn.
Sản xuất công nghiệp được phát triển với nền tảng vững chắc, từng bước thoát khỏi gia công lắp ráp.
Thu hút FDI tập trung vào các ngành công nghệ cao, phải có chuyển giao công nghệ.
Doanh nghiệp nội địa nâng cao được năng lực cạnh tranh trên thị trường cả trong và ngoài nước.
Khu vực kinh tế tư nhân được phát huy hết tiềm năng và tính năng động.
Song để tạo ra các động lực tăng trưởng mới và tổ chức lại các động lực tăng trưởng truyền thống đòi hỏi: Nguồn lực lớn về tài chính, công nghệ, nhân lực; Thời gian thực hiện trong nhiều năm, không thể ngay lập tức có hiệu quả; Điều chỉnh chính sách cần nhanh chóng, kịp thời, phù hợp để không bỏ lỡ thời cơ.
Giải pháp nào để đạt mục tiêu tăng trưởng từ 10% trở lên?
Đẩy nhanh quá trình chuyển sang mô hình tăng trưởng mới dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, năng suất lao động và các động lực tăng trưởng mới (kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn).
Nhanh chóng và quyết liệt tổ chức lại động lực tăng trưởng truyền thống:
Nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng xuất khẩu.
Nâng cao hiệu quả đầu tư.
Thu hút FDI chất lượng cao và có chuyển giao công nghệ.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa.
Phát huy hết tiềm năng và tính năng động của khu vực kinh tế tư nhân.
Đẩy nhanh cải cách thể chế. Hiện thực hóa “bộ ngũ nghị quyết" Bộ Chính trị nhanh chóng, hiệu quả (Nghị quyết 57 về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, Nghị quyết 59 về hội nhập quốc tế, Nghị quyết 66 về đổi mới công tác pháp luật, Nghị quyết 68 về phát triển khu vực kinh tế tư nhân, Nghị quyết 71 về giáo dục).
Đưa các nghị quyết này vào cuộc sống ngay trong năm 2026 để nhanh chóng giải phóng tiềm năng to lớn của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, khu vực kinh tế tư nhân, thể chế, hội nhập như là các lợi thế cạnh tranh nhằm tạo ra các động lực tăng trưởng mới cho sự phát triển mang tính đột phá.
Kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Ưu tiên đạt tăng trưởng GDP 10% trở lên trong bối cảnh mô hình tăng trưởng truyền thống vẫn dựa nhiều vào tăng vốn và tăng đầu tư có thể dẫn đến các rủi ro về lạm phát, nợ xấu, nợ công, thâm hụt ngân sách. Do đó, cần kiểm soát chặt chẽ chính sách tiền tệ và tài khóa, tránh việc đạt mục tiêu tăng trưởng cao kéo theo các bất ổn vĩ mô có thể hủy hoại thành tựu đạt được.
Khai thác thị trường nội địa hơn 100 triệu dân với thu nhập đang tăng. Khuyến khích tiêu dùng nội địa để giảm sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu.