Đóng

Hiệp định VJEPA và đối tác toàn diện Việt Nam - Nhật Bản

(VEN) - Trong chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng năm 2006, lãnh đạo hai nước đã đồng ý khởi động đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) nhằm thúc đẩy hơn nữa quan hệ giữa hai nước. Ngày 25/12/2008, Việt Nam và Nhật Bản đã chính thức ký Hiệp định VJEPA.

Hiệp định này cùng với các thoả thuận kinh tế ký trước đó đã tạo thành một khuôn khổ pháp lý ổn định, thuận lợi cho hoạt động thương mại và đầu tư giữa doanh nghiệp hai nước. Chính thức có hiệu lực từ ngày 1/10/2009, VJEPA là hiệp định FTA song phương đầu tiên của Việt Nam, các hiệp định FTA ký kết và thực hiện trước đó đều trong khuôn khổ ASEAN.

Hiệp định VJEPA là một thoả thuận song phương mang tính toàn diện bao gồm các nội dung cam kết về tự do hoá thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và các hợp tác kinh tế khác giữa hai quốc gia. Hiệp định được xây dựng phù hợp với các chuẩn mực và nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đối với thương mại hàng hóa,Việt Nam đồng ý tự do hóa đối với 87,66% kim ngạch thương mại trong vòng 10 năm. Nhật Bản cam kết tự do hóa 94,53% kim ngạch thương mại trong vòng 10 năm. Mức cam kết mà Việt Nam đưa ra cho Nhật Bản là khá thấp so với các nước ASEAN đã ký hiệp định song phương với Nhật Bản. Ví dụ, Philippines và Thái Lan cam kết tự do hóa tới 99% kim ngạch thương mại trong vòng 10 năm.

Về phía Nhật Bản, đối với các sản phẩm công nghiệp, lĩnh vực mà thuế suất của Nhật Bản đã rất thấp, Nhật Bản cam kết cắt giảm thuế suất bình quân từ mức 6,51% năm 2008 xuống còn 0,4% vào năm 2019 (sau 10 năm thực hiện hiệp định). Trong số này, đáng quan tâm là sản phẩm dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản được hưởng mức thuế 0% (giảm từ mức trung bình 7%) ngay từ khi hiệp định có hiệu lực ngày 1/10/2009. Các sản phẩm da, giày cũng sẽ được hưởng thuế nhập khẩu 0% trong vòng từ 5-10 năm. Đối với nông sản, lĩnh vực Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu nhưng cũng là lĩnh vực Nhật Bản bảo hộ mạnh mẽ, Nhật Bản cam kết giảm thuế suất bình quân từ mức 8,1% năm 2008 xuống còn 4,74% vào năm 2019. Theo cam kết này, rau quả tươi của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản sẽ được hưởng thuế suất 0% sau 5-7 năm kể từ ngày hiệp định có hiệu lực. Ngoài ra, Nhật Bản cũng dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan đối với mật ong với lượng hạn ngạch lên tới 150 tấn/năm, đây là cam kết cao nhất mà Nhật Bản từng đưa ra đối với sản phẩm này.

Lĩnh vực đem lại lợi ích xuất khẩu lớn nhất cho Việt Nam từ việc thực hiện VJEPA là thủy sản. Nhật Bản sẽ giảm thuế suất đối với hàng thủy sản của Việt Nam từ mức bình quân 5,4% năm 2008 xuống còn 1,31% năm 2019. Đặc biệt, tôm, cua, ghẹ và một số sản phẩm cá sẽ được hưởng thuế suất 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực. Vì Nhật Bản là thị trường xuất khẩu thủy sản hàng đầu của Việt Nam nên cam kết này thực sự có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu.

Lộ trình giảm thuế thủy sản của Nhật Bản theo JVEPA


Về phía Việt Nam, lộ trình cam kết giảm thuế trong VJEPA tương đối nhất quán về phạm vi và nguyên tắc cam kết trong các FTA khác mà Việt Nam tham gia. Ngay khi hiệp định có hiệu lực, Việt Nam đã xóa bỏ thuế quan đối với 2.586 dòng thuế (chiếm 28% biểu cam kết dòng), chủ yếu là các mặt hàng hoá chất dược phẩm, máy móc điện tử. Sau 10 năm thực hiện hiệp định (năm 2019), sẽ có thêm 3.717 mặt hàng được xoá bỏ thuế quan, nâng tổng số mặt hàng được xoá bỏ thuế quan lên 6.303, chiếm 67% số dòng thuế của biểu cam kết.

Nhật Bản là thị trường đầy tiềm năng và quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản đang phát triển mạnh mẽ trong hơn 30 năm qua. Kim ngạch thương mại hai chiều đạt gần 16,8 tỷ USD vào năm 2010, tăng khoảng 4 lần so với năm 2000. Đầu tư trực tiếp (FDI) của Nhật Bản tại Việt Nam cũng đang có sự khởi sắc. Các công ty của Nhật Bản, trong đó có nhiều tập đoàn công nghiệp uy tín đang mở rộng sự hiện diện của mình tại Việt Nam với quy mô đầu tư ngày một lớn. Đến hết tháng 11/2010, tổng vốn FDI đăng ký của Nhật Bản đạt trên 20,7 tỷ USD, đứng thứ 3 trong số các nước có đầu tư tại Việt Nam. Trong bối cảnh một số thị trường xuất khẩu chính như Hoa Kỳ, EU đang bị ảnh hưởng bởi những khó khăn kinh tế, việc giảm rào cản đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản thông qua Hiệp định VJEPA đã và đang góp phần thực hiện mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu. Qua hơn một năm thực hiện Hiệp định VJEPA,một số mặt hàng của Việt Nam đã tận dụng tốt các ưu đãi trong hiệp định để đạt tăng trưởng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, đặc biệt là dệt may, thủy sản, máy móc thiết bị. Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 7,728 tỷ USD, tăng 22,8% so với năm 2009 và Nhật Bản tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam (sau Hoa Kỳ).Các mặt hàng xuất khẩu chính sang Nhật Bản là hàng dệt may (kim ngạch năm 2010 là 1.154 triệu USD, tăng 21% so với năm 2009), tiếp theo là sản phẩm điện và dây cáp điện (920 triệu USD, tăng 44%), máy móc thiết bị (903 triệu USD, tăng 51%), hàng thủy sản (894 triệu USD, tăng 17%).

Việt Nam và Nhật Bản đang hướng tới mục tiêu xây dựng quan hệ đối tác chiến lược vì hoà bình và thịnh vượng của châu Á theo chủ trương đã được lãnh đạo hai nước thống nhất từ năm 2006. Trên thực tế, quan hệ chính trị, ngoại giao của hai nước đang phát triển rất tích cực. Việt Nam là nước tiếp nhận ODA lớn nhất của Nhật Bản. Trong bối cảnh đó, Hiệp định VJEPA đã tạo ra khuôn khổ pháp lý chặt chẽ, toàn diện hơn cho quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước, góp phần củng cố một bước vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới./.

Nguồn: Dự án EU - Việt Nam MUTRAP III

Nguồn: