Trong 5 năm qua, nhiều mô hình liên kết “4 nhà” đã giúp đồng bào dân tộc thiểu số từng bước thoát nghèo bền vững, vươn lên làm chủ vùng nguyên liệu và thị trường, mang lại giá trị gia tăng cao cho sản phẩm nông nghiệp bản địa.
Lời giải cho bài toán phát triển nông nghiệp vùng cao
Là tỉnh miền núi, Lai Châu có tới 80% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số và 90% diện tích là đồi núi. Trong điều kiện sản xuất còn manh mún, địa hình chia cắt và trình độ canh tác truyền thống, việc hình thành chuỗi liên kết sản xuất - chế biến - tiêu thụ sản phẩm là hướng đi không thể khác nếu muốn nông sản vùng cao có “chỗ đứng” bền vững trên thị trường.
Lai Châu triển khai nhiều giải pháp xúc tiến tiêu thụ nông sản của bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số (Ảnh: Hoàng Mai)
Chính quyền tỉnh đã triển khai hàng loạt cơ chế, chính sách hỗ trợ các mô hình chuỗi giá trị, từ khâu chọn giống, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, chế biến đến kết nối thị trường. Theo thống kê từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lai Châu, đến nay toàn tỉnh đã xây dựng được 77 chuỗi liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp; trong đó 38 chuỗi đang hoạt động hiệu quả.
Riêng trong năm 2023, toàn tỉnh có 41 mô hình liên kết được hỗ trợ từ các chương trình khuyến nông và khuyến công, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và đầu ra ổn định cho hàng loạt sản phẩm chủ lực.
Gạo Séng Cù Lai Châu được người tiêu dùng ưa chuộng (Ảnh: Hồng Hạnh)
Đơn cử, tại các xã Trung Chải, Lản Nhì Thàng, Pa Tần (huyện Sìn Hồ), mô hình trồng lúa Séng Cù, Tẻ Râu - những giống lúa bản địa có giá trị dinh dưỡng cao đang được tổ chức lại theo hướng sản xuất hàng hóa. Với hơn 3.800ha canh tác lúa hàng hóa mỗi năm, năng suất trung bình đạt trên 52 tạ/ha, nhiều mô hình đã cho thu nhập gấp 2-3 lần canh tác truyền thống.
Việc xây dựng thương hiệu gạo Lai Châu được chú trọng với bao bì đồng bộ, mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc. Một số sản phẩm đã đạt chuẩn OCOP 3 sao, 4 sao, mở đường vào hệ thống siêu thị tại Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố lớn.
Bên cạnh đó, chè cũng là sản phẩm tiêu biểu của tỉnh Lai Châu. Với diện tích lên đến hơn 10.000ha, Lai Châu là một trong những tỉnh có diện tích chè lớn nhất cả nước. Giai đoạn 2020-2024, diện tích chè tham gia liên kết sản xuất, tiêu thụ lên tới hơn 7.000ha, chiếm gần 70% tổng diện tích. Sản lượng chè khô hàng năm đạt khoảng 11.000 tấn.
Chè là một trong những sản phẩm chủ lực của địa phương (Ảnh: Mai Ngọc)
Tại Diễn đàn “Kết nối sản xuất và tiêu thụ chè chất lượng cao” diễn ra cuối năm 2024, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Trọng Hải đã khẳng định: “Chè Lai Châu đang từng bước khẳng định vị thế nhờ liên kết chặt chẽ giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp. Sản phẩm đã vươn ra thị trường trong nước và xuất khẩu sang Afghanistan, Pakistan, Đài Loan…”.
Hiện Doanh nghiệp chè Phong Hải, HTX Tân Uyên là những đơn vị đi đầu trong ứng dụng công nghệ chế biến, chuẩn hóa quy trình, giúp người trồng chè yên tâm sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, UTZ, hướng hữu cơ.
Hợp tác xã là “trục xoay” liên kết chuỗi
Tỉnh Lai Châu hiện có hơn 130 hợp tác xã nông nghiệp đang hoạt động, trong đó nhiều HTX đã khẳng định vai trò là “bà đỡ” cho bà con nông dân.
HTX Sản xuất và Dịch vụ nông nghiệp Bình Lư (huyện Tam Đường) đang liên kết với gần 100 hộ đồng bào dân tộc trồng dứa, ổi, lê theo hướng an toàn, thu mua bao tiêu toàn bộ sản phẩm với giá ổn định. Mỗi ha cây ăn quả cho thu nhập từ 120–150 triệu đồng/năm, cao gấp nhiều lần so với cây lương thực truyền thống.
Ông Giàng A Páo - Giám đốc HTX Nông nghiệp Mường So (huyện Phong Thổ) cho biết, nếu không có sự liên kết, người dân khó bán được nông sản với giá tốt. HTX chúng tôi không chỉ là nơi gom hàng, mà còn hỗ trợ kỹ thuật, kết nối thị trường và định hướng sản xuất theo nhu cầu tiêu dùng. Từ vai trò trung gian, HTX đang trở thành “đầu kéo” cho quá trình chuyển đổi tư duy sản xuất manh mún sang kinh tế hợp tác, thị trường.
Dù đạt được nhiều kết quả, việc phát triển chuỗi liên kết tại Lai Châu vẫn gặp không ít khó khăn. Một số hợp tác xã còn yếu về năng lực quản trị, thiếu vốn và khó tiếp cận công nghệ bảo quản, chế biến sâu. Việc thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp vùng cao còn hạn chế do hạ tầng giao thông, logistic còn nhiều rào cản.
Ngoài ra, tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, tự phát, thiếu định hướng theo tín hiệu thị trường vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi. Một số sản phẩm nông sản chưa xây dựng được thương hiệu rõ ràng, khó cạnh tranh với hàng hóa từ các tỉnh khác.
Thực tế tại Lai Châu đã cho thấy, liên kết sản xuất - tiêu thụ nông sản không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn góp phần quan trọng vào xóa đói giảm nghèo bền vững, nâng cao thu nhập cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời làm thay đổi căn bản tư duy sản xuất của người dân. Bài học từ Lai Châu chính là lời khẳng định, sự chủ động liên kết sẽ giúp người dân có cơ hội thoát nghèo và làm giàu một cách bền vững.
Tỉnh Lai Châu đang tiếp tục đặt mục tiêu đến năm 2030, trên 90% diện tích cây trồng chủ lực sẽ được sản xuất theo chuỗi liên kết gắn với chế biến và tiêu thụ. Để đạt được điều đó, ngoài sự vào cuộc mạnh mẽ của chính quyền, vai trò của HTX, doanh nghiệp và chính người nông dân là nhân tố không thể thiếu.