Đóng

Longform | Du lịch ‘mở lối’ tiêu thụ sản phẩm vùng cao

Sự giao thoa giữa văn hóa bản địa và kinh tế du lịch đang tạo nên hành trình mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi du lịch "mở lối" cho tiêu thụ sản phẩm.

 

Không còn là “vùng xa” trong bản đồ du lịch Việt, những bản làng nơi rẻo cao Tây Bắc, Tây Nguyên hay miền Trung đang dần trở thành điểm đến của hành trình trải nghiệm, nơi du khách không chỉ thưởng thức cảnh sắc mà còn sống cùng văn hóa. Đặc biệt, du lịch đã và đang trở thành chất xúc tác quan trọng để tiêu thụ sản phẩm khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Khi người dân không chỉ bán nông sản mà còn bán cả câu chuyện văn hoá, bản sắc, không gian sống của mình, thì giá trị sản phẩm được nhân đôi, thương hiệu địa phương được khẳng định, và du khách thay vì chỉ “đi qua” sẽ chọn ở lại, chi tiêu và gắn bó.

Chủ trương gắn phát triển du lịch với tiêu thụ sản phẩm vùng dân tộc thiểu số cũng là một định hướng lớn của Bộ Công Thương và Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch trong chương trình phát triển thị trường trong nước giai đoạn mới. Bởi lẽ, du lịch không chỉ là ngành kinh tế tổng hợp mà còn là “bàn đạp” giúp các sản phẩm OCOP, hàng thủ công mỹ nghệ, nông sản sạch, ẩm thực truyền thống… có cơ hội bước ra khỏi lũy tre làng, vươn tới thị trường rộng lớn hơn trong nước và quốc tế.

 

Ông Phạm Hải Quỳnh, Viện trưởng Viện Phát triển Du lịch châu Á, cho rằng bản sắc chính là “sợi chỉ đỏ” kết nối sinh kế nông nghiệp với du lịch. Mỗi làng, mỗi dân tộc đều mang trong mình kho tàng văn hóa và sản vật riêng, nếu biết khai thác đúng cách, chúng trở thành lợi thế cạnh tranh độc đáo. “Du lịch cộng đồng không chỉ là dịch vụ lưu trú, mà còn là sinh kế từ những gì bà con đang có - nông sản, làng nghề, phong tục. Khi du khách mua một bó rau, một thảo dược hay bát rượu cần, họ thực chất đang mua cả câu chuyện văn hóa của vùng đất ấy”, ông Quỳnh nói.

Một trong những minh chứng sinh động là mô hình của Hợp tác xã Cộng đồng Dao đỏ Tả Phìn (Lào Cai) do bà Tẩn Tả Mẩy sáng lập. Từ bài thuốc tắm lá cổ truyền của người Dao đỏ, HTX đã phát triển thành dịch vụ du lịch phục hồi sức khỏe nổi tiếng, vừa gìn giữ tri thức y học dân gian, vừa tạo việc làm cho hàng chục phụ nữ địa phương.

 

“Ban đầu chúng tôi không có vốn, không biết tiếp cận thị trường, nhưng tin rằng bài thuốc của cha ông là di sản quý. Khi du khách đến trải nghiệm, họ mang đi không chỉ sức khỏe mà còn là ấn tượng về con người Dao đỏ”, bà Mẩy kể.

Giữa bản Tả Phìn, những nồi nước tắm nghi ngút khói trở thành biểu tượng của du lịch cộng đồng. Mỗi lượt khách đến là một lần sản phẩm bản địa được tiêu thụ, là một cơ hội sinh kế mới mở ra.

 

Theo TS. Nguyễn Minh Phong, chuyên gia kinh tế, mối quan hệ giữa du lịch và tiêu thụ sản phẩm vùng dân tộc là “mối quan hệ cộng sinh hai chiều”. Du khách đến không chỉ để ngắm cảnh mà còn để trải nghiệm. Cũng chính quá trình trải nghiệm ấy thúc đẩy tiêu dùng có cảm xúc.

“Người dân vùng cao không chỉ là người bán hàng, họ là người kể chuyện. Khi sản phẩm gắn với ký ức, với con người, giá trị gia tăng của nó không chỉ tính bằng tiền”, ông Phong nhấn mạnh.

Thực tế, khi du lịch phát triển, người dân có thêm nguồn thu, giữ chân được thanh niên ở lại quê hương, giảm di cư lao động. Các sản phẩm đặc trưng, từ rượu ngô Bắc Hà, thổ cẩm Mường, cà phê Ê Đê, mật ong Tây Nguyên… được du khách biết đến nhiều hơn. Mỗi sản phẩm trở thành một “đại sứ văn hóa” đưa hình ảnh địa phương vươn xa.

 

Tuy nhiên, đi cùng cơ hội là những thách thức. Khi du khách đến đông, nguy cơ thương mại hóa, làm mất bản sắc là có thật. Ông Phong cảnh báo: “Nếu để du lịch áp đảo văn hóa, hàng hóa sẽ bị đồng nhất, bản sắc bị phai nhạt. Cần quy hoạch rõ ràng, giữ giới hạn hợp lý, không đánh đổi giá trị văn hóa lấy doanh thu ngắn hạn.”

Ông đề xuất xây dựng bộ tiêu chí du lịch văn hóa - nơi sản phẩm được chứng nhận về nguồn gốc, văn hóa và chất lượng; đồng thời chú trọng đào tạo kỹ năng cho đồng bào để họ là chủ thể tham gia, không chỉ là “diễn viên phụ” trong sân khấu du lịch.

Nếu như trước đây, sản phẩm vùng dân tộc chủ yếu tiêu thụ theo kênh truyền thống thì nay, chuyển đổi số đang mở ra cánh cửa mới. Bà Tẩn Tả Mẩy chia sẻ: “Chúng tôi học cách dùng Zalo, Facebook, TikTok để livestream giới thiệu sản phẩm. Lúc đầu vụng về, sau quen dần, khách đặt hàng tận nơi, doanh thu tăng lên thấy rõ”.

 

Hình ảnh những phụ nữ Dao đỏ livestream bên nồi lá thuốc, hay chàng trai Mông tự tay gói mật ong gửi khách, trở thành “thương hiệu số” mộc mạc mà chân thật. Mỗi bản làng là một “gian hàng trực tuyến”, mỗi câu chuyện được kể là một chiến dịch truyền thông tự nhiên, hiệu quả.

Theo TS. Nguyễn Minh Phong, đây là thời điểm vàng để kết nối du lịch và sản phẩm vùng cao trên nền tảng số. “Cần xây dựng danh mục sản phẩm du lịch số hóa, có mã QR, định danh nguồn gốc, tiêu chuẩn hóa chất lượng. Mỗi sản phẩm nên đi kèm câu chuyện văn hóa, video trải nghiệm, hình ảnh làng bản. Khi đó, sản phẩm có thể ‘đi xa mà không rời bản’.

Ông Phạm Hải Quỳnh cũng khẳng định, phải “số hóa câu chuyện của bản làng”, từ lễ hội, ẩm thực, nghề truyền thống đến sản phẩm OCOP để du khách chỉ cần quét mã QR là có thể tìm thấy toàn bộ thông tin, hành trình và câu chuyện đằng sau sản phẩm. “Khi cộng đồng được làm chủ, được tham gia sáng tạo, du lịch mới thực sự bền vững”, ông nói.

 

Từ góc nhìn chính sách, các chuyên gia cho rằng cần những chương trình tích hợp dài hạn giữa phát triển du lịch cộng đồng và kinh tế bản địa. Đó không chỉ là việc hỗ trợ vốn hay hạ tầng, mà là xây dựng hệ sinh thái liên kết “bốn nhà”: Nhà nước - Doanh nghiệp - Nhà trường - Người dân.

Nhà nước định hướng và ban hành chính sách; doanh nghiệp đầu tư, quảng bá; nhà trường đào tạo nhân lực; người dân là trung tâm thực thi và hưởng lợi. Chỉ khi bốn mắt xích này vận hành đồng bộ, du lịch vùng dân tộc mới thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Những chương trình như “Tinh hoa Tây Bắc”, “Sắc màu Tây Nguyên”, “Hồn đá xứ Lạng” có thể trở thành điểm nhấn thương hiệu vùng, vừa gợi cảm xúc, vừa khẳng định vị thế văn hóa - du lịch Việt Nam.

 

TS. Nguyễn Minh Phong đề xuất: “Chính phủ và các địa phương cần có chiến lược tôn vinh giá trị văn hóa - du lịch bản địa, xây dựng giải thưởng riêng cho du lịch cộng đồng, để mỗi dịp vinh danh cũng là một cơ hội xúc tiến thương mại và truyền thông”.

Ở tầm vi mô, những mô hình như HTX Dao đỏ Tả Phìn, làng du lịch Quỳnh Sơn (Lạng Sơn), bản Nà Tăm (Lai Châu)… đang chứng minh rằng: chỉ cần người dân được tin tưởng và được trao công cụ, họ sẽ tự biến bản làng mình thành “điểm đến” của kinh tế xanh, du lịch văn hóa và sản phẩm bản địa.

Giữa dòng chảy hội nhập, khi du khách ngày càng tìm kiếm những trải nghiệm chân thực, du lịch vùng đồng bào dân tộc thiểu số đang trở thành “cửa ngõ” đưa sản phẩm bản địa bước ra thế giới. Mỗi tấm thổ cẩm, mỗi bát rượu ngô, mỗi nồi lá thuốc… đều mang trong mình câu chuyện về một nền văn hóa đang hồi sinh bằng chính sức mạnh của cộng đồng.

 

Đặc biệt, phát triển du lịch gắn với sản phẩm địa phương không đơn thuần là bán thêm vài món hàng lưu niệm, mà là tạo sinh kế dài lâu, là “chìa khoá vàng” để mở cánh cửa phát triển cho vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, để mô hình này thực sự lan toả, rất cần sự vào cuộc đồng bộ: chính quyền định hướng - doanh nghiệp đầu tư - người dân tham gia - chuyên gia đồng hành - truyền thông lan toả.

Trong kỷ nguyên số, nếu biết tận dụng công nghệ, các nền tảng thương mại điện tử, mạng xã hội và du lịch trực tuyến sẽ trở thành kênh kết nối hữu hiệu để sản phẩm vùng dân tộc “đi xa mà không rời bản”. Khi mỗi tour du lịch trở thành câu chuyện lan tỏa văn hóa, mỗi món quà mang về là một phần của bản sắc dân tộc thì du lịch không chỉ góp phần tiêu thụ sản phẩm, mà còn góp phần giữ gìn và tôn vinh giá trị Việt.

Đó không chỉ là mô hình phát triển kinh tế, mà còn là hành trình gìn giữ linh hồn bản sắc Việt, nơi du lịch không chỉ mang du khách đến gần hơn với thiên nhiên, mà còn kết nối con người với con người, kết nối hiện tại với cội nguồn.

Nội dung: Lan Phương; Đồ hoạ: Ngọc Lan