Đóng

Longform | Hành trình mới của thổ cẩm vùng dân tộc thiểu số: Bài 2

Thủ công mỹ nghệ Việt Nam chứa đựng hồn cốt văn hóa dân tộc. Để chinh phục thị trường toàn cầu, ngành cần vượt qua rào cản nhỏ lẻ, đổi mới và xây dựng thương hiệu.

Thủ công mỹ nghệ của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi vốn bắt nguồn từ đời sống thường nhật, gắn với lao động sản xuất và tín ngưỡng cộng đồng. Đằng sau mỗi sản phẩm là những câu chuyện về núi rừng, phong tục, tập quán, ký ức của cả một cộng đồng. Từ thổ cẩm của người Thái, váy lanh của người Mông đến thêu tay của người Dao, mỗi hoa văn đều mang một thông điệp văn hóa độc bản.

Trong thời đại toàn cầu hóa, chính sự độc bản ấy lại trở thành lợi thế cạnh tranh. Người tiêu dùng thế giới ngày càng ưa chuộng sản phẩm thủ công, dệt thổ cẩm thân thiện môi trường, gắn với câu chuyện văn hóa. Đây là “cửa sổ cơ hội” để hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam khẳng định vị thế.

Bà Trần Tuyết Lan - Giám đốc Craft Link, một doanh nghiệp xã hội chuyên hỗ trợ cho các HTX vùng đồng bào dân tộc thiểu số chia sẻ nhấn mạnh: “Chúng tôi luôn coi bản sắc là nền tảng. Sản phẩm có thể thay đổi về công năng, mẫu mã, nhưng không thể đánh mất gốc văn hóa”.

Craft Link trong nhiều năm qua đã triển khai mô hình hỗ trợ cộng đồng tại các vùng dân tộc thiểu số. Song theo bà Trần Tuyết Lan, điều quan trọng nhất là trao quyền để chính người dân làm chủ sản phẩm. “Chúng tôi bắt đầu với việc khuyến khích người dân giữ nghề, sau đó hỗ trợ họ cải tiến mẫu mã, làm việc theo nhóm và đưa sản phẩm ra thị trường”.

 

Nhờ cách tiếp cận này, nhiều bản làng đã hồi sinh nghề truyền thống. Ở Mông Lùng Tám (Hà Giang), sợi lanh vốn chỉ để may váy áo, nay trở thành khăn choàng, túi xách được khách quốc tế ưa chuộng. Tại bản Hoa Tiến (Nghệ An), người dân sáng tạo từ vải thổ cẩm thành ga trải giường, vỏ gối, túi đeo chéo. Còn ở Pà Cò (Hòa Bình), nghề thêu tay vốn chỉ phục vụ lễ hội nay được phát triển thành sản phẩm thương mại có giá trị cao.

Điểm chung của các mô hình này là sự đồng hành giữa cộng đồng, tổ chức hỗ trợ và thị trường. Khi có lợi ích kinh tế, người dân mới kiên trì giữ nghề, còn sản phẩm mới có sức sống lâu dài.

Song song với đó, theo ông Trịnh Quốc Đạt - Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hiện nay, xu hướng tiêu dùng sản phẩm thủ công mỹ nghệ trên thế giới thiên về những sản phẩm xanh. Khách hàng quốc tế ngày càng quan tâm đến xuất xứ, nguồn gốc rõ ràng, ưu tiên nguyên liệu tự nhiên như mây, tre, đan… chứ không phải nguyên liệu nhân tạo hay hóa chất. Đây là lợi thế của sản phẩm bà con vùng dân tộc thiểu số, nơi các sản phẩm chưa bị ảnh hưởng bởi sản xuất hàng loạt và sử dụng nhiều hoá chất.

 

Đồng thời, điểm hấp dẫn lớn nhất của sản phẩm thủ công mỹ nghệ chính là mang đậm bản sắc văn hóa vùng miền. Mỗi sản phẩm không chỉ có giá trị sử dụng mà còn chứa đựng câu chuyện văn hóa, lịch sử, thậm chí gắn với chỉ dẫn địa lý. Đó là yếu tố khiến khách hàng quốc tế đặc biệt quan tâm.

Ngoài ra, một bộ phận khách hàng sẵn sàng chi trả mức giá rất cao để có được sản phẩm độc bản, tức là nghệ nhân chế tác riêng theo sở thích, tạo nên sự độc đáo không ai có. Đây là phân khúc tiềm năng nhưng đòi hỏi sự sáng tạo và tay nghề tinh xảo.

“Sự phát triển của truyền thông số và các kênh thương mại điện tử cũng đang mở rộng cơ hội. Giờ đây, nghệ nhân có thể trực tiếp kết nối với khách hàng toàn cầu, góp phần nâng cao giá trị và khả năng tiếp cận thị trường”, ông Trịnh Quốc Đạt chia sẻ. 

Có sự độc đáo, hội tụ nhiều tinh hoa, thổ cẩm nói riêng và thủ công mỹ nghệ nói chung là sản phẩm xuất khẩu chủ lực. Theo số liệu Bộ Công Thương, năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam ước tính đạt khoảng 2 tỷ USD, trong đó hàng thủ công mỹ nghệ chiếm một phần khá lớn. Thời gian qua, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã tạo động lực cho sự tăng trưởng xuất khẩu, đặc biệt là sang các thị trường như Châu Âu và Hoa Kỳ. Năm 2025, ngành hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đặt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 4 tỷ USD. Các mặt hàng chủ lực gồm mây tre đan, thổ cẩm, gốm sứ, sơn mài… Thị trường lớn nhất vẫn là Mỹ, EU và Nhật Bản - những nơi có nhu cầu cao với sản phẩm thủ công độc đáo, thân thiện môi trường.

 

Tuy nhiên, so với các quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, kim ngạch thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vẫn còn khiêm tốn. Điều này cho thấy tiềm năng còn rất lớn, nếu biết khai thác lợi thế bản sắc văn hóa, kết hợp với chiến lược tiếp thị bài bản.

Mặc dù không ít người thường nghĩ đến xuất khẩu như đích đến duy nhất. Nhưng theo ông Trịnh Quốc Đạt – Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, thị trường nội địa mới là nền tảng quan trọng: “Muốn vươn ra thế giới, trước hết sản phẩm phải chinh phục được người tiêu dùng trong nước”.

 

Ông Trịnh Quốc Đạt phân tích, xu hướng tiêu dùng hiện nay ưu tiên sản phẩm xanh, bền vững, mang giá trị văn hóa. Đây chính là lợi thế của thủ công mỹ nghệ Việt. Tuy nhiên, ngành hàng này còn vướng nhiều rào cản: sản xuất nhỏ lẻ, thiếu liên kết, mẫu mã chậm cải tiến. “Cần phát triển các trung tâm thiết kế, hỗ trợ làng nghề đổi mới sản phẩm. Nếu không, chúng ta sẽ mãi quanh quẩn với mẫu cũ, khó cạnh tranh”, ông Đạt nhấn mạnh.

Bà Trần Tuyết Lan chia sẻ thêm, một vấn đề khác là thị trường nội địa chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều sản phẩm thủ công Việt Nam xuất khẩu thành công, nhưng lại khó tìm thấy trong nước. Nguyên nhân có thể là giá thành cao hoặc kênh phân phối chưa hợp lý. Nếu có chính sách khuyến khích tiêu dùng nội địa, kể cả qua mua sắm công của cơ quan, tổ chức, thì sản phẩm truyền thống sẽ có thêm chỗ đứng, vừa bảo vệ văn hóa, vừa nuôi dưỡng sinh kế cho nghệ nhân.

Thời gian qua, nhiều chính sách như chương trình OCOP, đề án bảo tồn làng nghề, xúc tiến thương mại quốc tế đã tạo cú hích ban đầu. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, để ngành thủ công mỹ nghệ bứt phá, cần một chiến lược dài hạn hơn. Cụ thể, đầu tư đào tạo nghệ nhân trẻ, tránh “đứt gãy” truyền nghề. Ứng dụng công nghệ vào sản xuất, nhưng vẫn giữ tinh hoa thủ công.

Thêm nữa, xây dựng thương hiệu quốc gia cho hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Đẩy mạnh kết nối thương mại điện tử, mở gian hàng trên các sàn lớn. Kết hợp thủ công mỹ nghệ với du lịch trải nghiệm để tạo giá trị gia tăng. Nếu làm được, thủ công mỹ nghệ không chỉ là sản phẩm văn hóa, mà còn trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp hàng tỷ USD mỗi năm.

 

Dưới góc độ hợp tác xã, bà Sầm Thị Bích – Giám đốc HTX Thổ cẩm Hoa Tiến (Nghệ An) đề xuất, sản phẩm thủ công, thổ cẩm không thể sản xuất nhanh và nhiều như hàng công nghiệp. Mỗi sản phẩm đều cần nhiều ngày, thậm chí nhiều tuần công phu, nên giá thành thường cao. Vì vậy, để sản phẩm đến gần hơn với người tiêu dùng, đặc biệt là thị trường quốc tế, HTX rất cần những chương trình hỗ trợ kết nối.

“Chúng tôi mong muốn được tham gia nhiều hơn vào các hội chợ, triển lãm, hội thảo, nơi có thể trưng bày sản phẩm và tiếp cận khách hàng tiềm năng. Đây là những cơ hội quan trọng để quảng bá, giới thiệu sản phẩm không chỉ trong nước mà cả quốc tế. Ngoài ra, các dụng cụ sản xuất của bà con hiện còn rất thô sơ, chưa đáp ứng tốt cho việc nâng cao chất lượng và năng suất. HTX rất mong được Nhà nước và các tổ chức quan tâm hỗ trợ máy móc, trang thiết bị phù hợp để cải thiện quy trình sản xuất, từ đó vừa giữ được nghề, vừa tạo sinh kế ổn định cho đồng bào”, bà Sầm Thị Bích nói.

Dưới góc độ địa phương, ông Hà Ra Diêu, Bí thư Đảng ủy xã Trà Tập (Quảng Nam) cho biết, trong thời gian qua, địa phương đã tập trung khôi phục các làng nghề truyền thống như thổ cẩm, đàn đá, rèn, mộc, rượu cần… nhằm giữ văn hóa truyền thống và phát triển kinh tế, dịch vụ địa phương.

Đặc biệt, triển khai thực hiện tốt Dự án 6 về “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch”, xây dựng và đẩy mạnh phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái trên địa bàn.

Cùng với đó, tổ chức nhiều lễ hội truyền thống như Cúng máng nước, Mừng lúa mới, hội thi nghề truyền thống và cồng chiêng, hát Tingtin… gắn với quảng bá, tiêu thụ sản phẩm thủ công mỹ nghệ nhằm tạo sự lan tỏa tích cực trong các tầng lớp nhân dân về bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

 

Ông Thạch Cảnh Tịnh - Chủ tịch UBND phường Đông Gia Nghĩa, tỉnh Lâm Đồng cho hay, thời gian qua, địa phương đã triển khai dự án bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch, thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi; chính quyền địa phương khuyến khích các nghệ nhân truyền nghề cho thế hệ trẻ. Mô hình tổ hợp tác đã trở thành nơi giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm, tạo thu nhập nâng cao đời sống cho một bộ phận phụ nữ người Mạ; đồng thời bảo tồn văn hóa và quảng bá, hỗ trợ đầu ra cho sản phẩm thổ cẩm, góp phần vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo tại địa phương.

Thủ công mỹ nghệ vùng dân tộc thiểu số và miền núi là kết tinh văn hóa và trí tuệ của cộng đồng. Nhưng để biến di sản ấy thành động lực phát triển kinh tế, cần sự chung tay của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Như bà Trần Tuyết Lan khẳng định: “Giữ nghề là giữ gốc, nhưng phải biết thích nghi để tồn tại”. Còn ông Trịnh Quốc Đạt thì nhấn mạnh: “Thị trường trong nước chính là bệ phóng để sản phẩm Việt vươn ra thế giới”. Hai thông điệp ấy gặp nhau ở một điểm: muốn thổ cẩm và hàng thủ công mỹ nghệ có chỗ đứng bền vững, phải vừa giữ bản sắc, vừa dũng cảm đổi mới. Đó là con đường để thủ công mỹ nghệ Việt Nam không chỉ tồn tại, mà còn tỏa sáng trên thị trường toàn cầu. 

Nội dung: Bảo Ngọc; Đồ hoạ: Thanh Vân; Ảnh: Cấn Dũng