Trên những triền đồi uốn lượn, từng luống chè xanh mướt như tấm thảm mềm ôm lấy đất trời Phú Thọ. Sáng sớm, sương bảng lảng quyện trong hương chè non, tiếng nói cười của đồng bào Mường, Dao vang vọng giữa mây núi. Với đồng bào nơi đây, cây chè không chỉ là kế sinh nhai mà còn là mạch nguồn văn hóa, là hơi thở của núi rừng. Mỗi bàn tay rám nắng nâng niu búp chè như giữ lấy lộc của đất.
Qua bao mùa mưa nắng, từ nếp nhà sàn nhỏ bé đến những đồi chè bạt ngàn, câu chuyện về cây chè gắn liền với đời sống của cộng đồng dân tộc thiểu số, nuôi dưỡng giấc mơ đổi thay nơi miền núi. Khi những sản phẩm chè Phú Thọ mang chứng nhận OCOP vươn ra thị trường, đó cũng là lúc hương vị cần lao của đồng bào Mường, Dao, Cao Lan vượt khỏi lũy tre làng, kể câu chuyện về một vùng chè vừa đậm chất thơ, vừa thấm tình người.
Với gần 13.600 ha chè, sản lượng hàng năm đạt gần 180.000 tấn, Phú Thọ nằm trong nhóm các tỉnh có diện tích chè lớn nhất cả nước. Trong đó, trên 10.000 ha đạt chứng nhận sản xuất an toàn theo các tiêu chuẩn RA, VietGAP, hữu cơ. Tỉnh đã hình thành 70 vùng sản xuất tập trung, khoảng 5.800 ha gắn với chuỗi giá trị bền vững, tạo nền tảng để xây dựng thương hiệu lâu dài.
Từ năm 2020, UBND tỉnh đã triển khai Nhãn hiệu chứng nhận “Chè Phú Thọ”, một bước quan trọng để bảo hộ sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn hóa sản phẩm. Đến nay, 15 doanh nghiệp và hợp tác xã được cấp quyền sử dụng nhãn hiệu này. Mọi sản phẩm mang nhãn hiệu “Chè Phú Thọ” đều có truy xuất nguồn gốc và được kiểm soát nghiêm ngặt về chất lượng, an toàn thực phẩm. Song song đó, tỉnh có 18 sản phẩm chè đạt OCOP từ 3 sao trở lên, trong đó 2 sản phẩm được xếp hạng 5 sao, góp phần khẳng định vị thế chè Phú Thọ trên thị trường.
Xã Long Cốc của Phú Thọ nổi tiếng với những đồi chè xanh ngút ngàn, được ví như “Đà Lạt của xứ chè”. Đây là địa bàn có tới 90% dân số là đồng bào Mường. Năm 2018, HTX sản xuất chè an toàn Long Cốc ra đời, liên kết gần 30 hộ dân với diện tích khoảng 40 ha, trong đó hơn 10 ha đạt chuẩn VietGAP. Mỗi năm, HTX chế biến 8-12 tấn chè, với 4 sản phẩm đạt OCOP.
Năm 2018, HTX sản xuất chè an toàn Long Cốc ra đời, liên kết gần 30 hộ dân với diện tích khoảng 40 ha, trong đó hơn 10 ha đạt chuẩn VietGAP. Đây là một trong 25 chuỗi liên kết sản phẩm chè được tỉnh công nhận. Mỗi năm, HTX chế biến 8-12 tấn chè, trong đó có 4 sản phẩm đạt chứng nhận OCOP.
Giám đốc HTX - bà Phạm Thị Hạnh chia sẻ: “Liên kết sản xuất theo chuỗi đã giúp chúng tôi tạo ra sản phẩm đồng đều, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng. Việc đạt chứng nhận OCOP là động lực để HTX tiếp tục nâng cao chất lượng, mở rộng thị trường”.
Không chỉ tập trung sản xuất, HTX còn tận dụng các sự kiện văn hóa - du lịch như Lễ hội Đền Hùng, hội chợ OCOP để quảng bá sản phẩm. Nhờ đó, chè Long Cốc ngày càng được biết đến rộng rãi, thu hút khách hàng trong và ngoài tỉnh. Nhờ sự kết hợp giữa sản xuất an toàn và du lịch trải nghiệm, Long Cốc không chỉ bán chè mà còn thu hút khách tham quan, tạo thêm thu nhập cho người dân miền núi.
Tại xã Cự Đồng, HTX Chè Cẩm Mỹ do bà Nguyễn Thị Cẩm Mỹ khởi xướng từ năm 2018, ban đầu chỉ với vài hộ dân và 10 ha chè. Hiện HTX đã liên kết trên 30 ha chè, trong đó 15 ha đạt VietGAP. Khoảng 70% thành viên HTX là đồng bào Mường và Dao, nhiều hộ trước đây sản xuất manh mún, thu nhập bấp bênh.
“HTX giúp đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận kỹ thuật canh tác hữu cơ, được tập huấn bài bản và bao tiêu sản phẩm. Nhờ đó, thu nhập của các hộ tăng gấp đôi, đời sống ổn định hơn”, bà Vi Thị Mẩy, một thành viên HTX chia sẻ.
Chè hữu cơ của HTX hiện được tiêu thụ tại nhiều tỉnh, giá bán gấp 1,5-2 lần chè thông thường, tạo sinh kế bền vững cho bà con vùng núi. Đặc biệt, nhãn hiệu chứng nhận ‘Chè Phú Thọ’ đã giúp sản phẩm của HTX khẳng định vị thế. Người tiêu dùng nhận diện thương hiệu rõ hơn, đồng thời sản phẩm cũng dễ dàng kết nối với các kênh phân phối lớn.
HTX Chè Cẩm Mỹ còn là điển hình trong việc tạo việc làm cho lao động địa phương, đặc biệt là đồng bào dân tộc Mường. Nhờ hợp đồng bao tiêu ổn định, thu nhập của người dân tăng gấp 1,5-2 lần so với trước đây.
Liên minh HTX tỉnh Phú Thọ hiện có hơn 150 HTX nông nghiệp hoạt động theo chuỗi giá trị. Nhiều HTX chè đã được hỗ trợ vốn, cải tiến bao bì, xây dựng thương hiệu với tổng mức hỗ trợ lên tới hàng tỷ đồng. Riêng trong giai đoạn 2022-2024, tỉnh đã tổ chức gần 150 lớp tập huấn, thu hút hơn 18.000 lượt cán bộ và thành viên HTX tham gia, cập nhật kỹ năng quản trị, marketing, chuyển đổi số và xây dựng thương hiệu.
Hơn một nửa diện tích chè Phú Thọ nằm ở các xã miền núi khó khăn. Nhận thức được điều đó, tỉnh đã ưu tiên đầu tư giao thông, điện, hệ thống tưới cho các vùng chè trọng điểm. Các dự án khuyến nông, hỗ trợ giống, máy móc chế biến đều dành tỷ lệ lớn cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số.
Xác định cây chè là một trong những cây trồng chủ lực, tạo ra sản phẩm có chất lượng, giá trị cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi địa phương, tỉnh Phú Thọ rất quan tâm đến việc phát triển cây trồng chủ lực này. Theo Kế hoạch 302/KH-UBND năm 2024, Phú Thọ đặt mục tiêu đến năm 2025 có 30% HTX nông nghiệp liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm, 20% ứng dụng công nghệ số, 25% có sản phẩm OCOP và trên 70% HTX hoạt động hiệu quả. Đây là chính sách then chốt giúp các HTX chè mở rộng quy mô và nâng cao giá trị sản phẩm.
Liên minh HTX tỉnh phối hợp với các huyện miền núi tổ chức tập huấn miễn phí về kỹ thuật canh tác hữu cơ, quản trị HTX và thương mại điện tử. Trong ba năm qua, hơn 10.000 lượt hộ dân tộc thiểu số đã tham gia các khóa đào tạo. Đây là nền tảng để người dân miền núi chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ sang tham gia chuỗi liên kết giá trị cao.
Tỉnh Phú Thọ đang tập trung cải cách thủ tục hành chính liên quan đến đăng ký kinh doanh, vay vốn và sử dụng đất đai, tạo điều kiện để HTX yên tâm đầu tư dài hạn. Bên cạnh đó, gói hỗ trợ tín dụng ưu đãi, trang bị máy móc, thiết bị chế biến hiện đại và các giải pháp chuyển đổi số đang được triển khai đồng bộ. Liên minh HTX tỉnh còn đẩy mạnh truyền thông, quảng bá sản phẩm trên các sàn thương mại điện tử, đưa chè Phú Thọ tiếp cận thị trường rộng hơn.
Nhờ sự vào cuộc đồng bộ của chính quyền và HTX, đến nay Phú Thọ đã xây dựng hơn 25 chuỗi liên kết sản phẩm chè, giúp nâng giá trị sản phẩm lên 15–20% so với sản xuất nhỏ lẻ. Toàn tỉnh có hơn 120 sản phẩm OCOP của các HTX, chiếm gần một nửa tổng số sản phẩm OCOP toàn tỉnh. Thu nhập của người dân tham gia mô hình liên kết cũng tăng đáng kể; nhiều lao động có việc làm ổn định với mức lương 4-6 triệu đồng/tháng.
Tại Long Cốc hay Thanh Sơn, cây chè không chỉ là sản phẩm kinh tế mà còn là một phần văn hóa của người Mường, Dao. Việc kết hợp sản xuất chè với du lịch trải nghiệm, lễ hội văn hóa dân tộc đang mở ra hướng phát triển mới, giúp người dân miền núi đa dạng hóa nguồn thu nhập và quảng bá bản sắc địa phương.
Dù có nhiều nỗ lực tuy nhiên, một số HTX chè vẫn hoạt động manh mún, chưa xây dựng được thương hiệu mạnh. Việc tiếp cận vốn vay, ứng dụng khoa học kỹ thuật còn hạn chế. Nhiều HTX chưa sẵn sàng tham gia thương mại điện tử do thiếu kỹ năng số và nhân lực quản trị. Ngoài ra, nguồn nguyên liệu chưa đồng đều, tình trạng sản xuất nhỏ lẻ khiến việc kiểm soát chất lượng gặp khó khăn.
Để nâng tầm thương hiệu chè trong thời gian tới, Phú Thọ xác định tiếp tục nhân rộng mô hình chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ, đặc biệt là các vùng chè hữu cơ và VietGAP. Chuyển đổi số trong quản trị HTX, truy xuất nguồn gốc và thương mại điện tử là xu hướng tất yếu. Bên cạnh đó, tỉnh cần tăng cường đào tạo kỹ năng marketing, xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại quốc tế cho các HTX. Việc kiểm soát chặt chẽ nhãn hiệu chứng nhận “Chè Phú Thọ” cũng là giải pháp quan trọng để ngăn chặn tình trạng sao chép, bảo vệ uy tín sản phẩm.
Từ quy hoạch vùng nguyên liệu, bảo hộ sở hữu trí tuệ đến việc hình thành các chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ, Phú Thọ đang từng bước xây dựng thương hiệu chè uy tín, bền vững. Các hợp tác xã đóng vai trò nòng cốt, kết nối nông dân với thị trường, nâng cao giá trị sản phẩm và thu nhập cho người dân. Với sự đồng hành của chính sách địa phương và chiến lược phát triển bài bản, chè Phú Thọ hứa hẹn không chỉ giữ vững vị trí trên thị trường trong nước mà còn vươn ra thị trường quốc tế.
Chiều xuống trên những đồi chè Phú Thọ, nắng cuối ngày rải vàng lên những lá non còn đọng sương, gió từ núi thổi qua mang theo hương chè ngan ngát. Trong tiếng chày giã cốm, tiếng khèn của người Mường vọng từ bản xa, cây chè như một chứng nhân lặng lẽ của đất và người. Từng búp chè nhỏ bé gói trong mình câu chuyện của núi rừng, của bàn tay đồng bào dân tộc thiểu số đã cần mẫn chăm chút qua bao mùa mưa nắng. Khi những gói chè xanh rời đồi núi để đến với khắp miền đất nước, đó không chỉ là sản vật kinh tế, mà còn là lời nhắn nhủ dịu dàng từ vùng trung du, nơi đất đai và con người hòa làm một để dệt nên thương hiệu chè Phú Thọ - mộc mạc mà bền bỉ từ bàn tay cần mẫn của đồng bào.