Những động lực kép
Theo số liệu công bố ngày 6/9 của Cục Thống kê, Bộ Tài chính, bức tranh kinh tế Việt Nam 8 tháng đầu năm 2025 đã xuất hiện những điểm sáng rõ rệt. Cụ thể, tăng trưởng GDP 6 tháng đạt 7,6%, mức cao nhất nhiều năm, phản ánh đà phục hồi mạnh mẽ của công nghiệp chế biến chế tạo, dịch vụ và xuất khẩu.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 8 tháng đạt gần 598 tỷ USD, tăng 16,3% so cùng kỳ, đem lại mức xuất siêu gần 14 tỷ USD, một thành tích cho thấy sức cạnh tranh hàng hóa Việt Nam vẫn duy trì trong bối cảnh thương mại toàn cầu còn nhiều bất ổn.
Theo các chuyên gia kinh tế, việc lạm phát bình quân 8 tháng được kiểm soát ở mức 3,25%, thấp hơn mục tiêu 4 - 4,5%, đã tạo dư địa quan trọng cho chính sách tiền tệ linh hoạt.
Chia sẻ về hệ thống tài chính hỗ trợ cho tăng trưởng, GS.TS Trần Thọ Đạt, Chủ tịch hội đồng trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, hiện Ngân hàng Nhà nước điều hành mặt bằng lãi suất cho vay bình quân khoảng 6,38%/năm, giảm khoảng 0,6%/năm so với cuối năm 2024, qua đó hỗ trợ giảm chi phí vốn cho doanh nghiệp. Cùng với đó, tín dụng toàn hệ thống tăng gần 10% tính đến cuối tháng 7, phản ánh sự cải thiện hấp thụ vốn của nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh đầu tư và tiêu dùng nội địa cần được kích hoạt.
Ngân hàng Nhà nước điều hành mặt bằng lãi suất cho vay bình quân khoảng 6,38%/năm. Ảnh: Duy Minh
Ông cũng chỉ ra, chính sách giảm 50% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng nhận chuyển giao tổ chức tín dụng yếu kém, có hiệu lực từ tháng 10/2025, là một quyết định kép, vừa hỗ trợ xử lý ngân hàng yếu, vừa hạ chi phí vốn, cải thiện thanh khoản cho hệ thống.
Bên cạnh đó, việc xem xét nâng “room” cho nhà đầu tư nước ngoài tại một số ngân hàng nhận chuyển giao lên 49% tạo kỳ vọng thu hút thêm vốn ngoại có chọn lọc, góp phần củng cố niềm tin thị trường.
Cùng lúc, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã có dấu hiệu phục hồi mạnh sau giai đoạn trầm lắng 2022 - 2023. Riêng tháng 8/2025, giá trị phát hành đạt khoảng 322,1 nghìn tỷ đồng, trong đó khối ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn, bất động sản cũng quay trở lại.
Tính đến cuối tháng 8, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ khoảng 1,1 triệu tỷ đồng, tương đương 9,8% GDP 2024. Sự phục hồi này vừa giúp doanh nghiệp đa dạng hóa kênh vốn trung, dài hạn, vừa giảm áp lực lên tín dụng ngân hàng vốn đang gánh phần lớn nhu cầu vốn nền kinh tế.
Tài khóa cũng phát huy vai trò rõ nét. Giải ngân đầu tư công 8 tháng ước đạt hơn 434 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 10% so cùng kỳ và tương đương gần 40% kế hoạch năm. Việc thúc đẩy giải ngân không chỉ tạo cầu kéo cho khu vực tư nhân mà còn cải thiện dòng chảy thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, trở thành một “cặp bánh răng” song hành với chính sách tiền tệ.
Nhìn tổng thể, bức tranh này cho thấy hệ thống tài chính Việt Nam đã và đang đóng vai trò trung tâm trong hỗ trợ tăng trưởng. Tuy vậy, sự phục hồi hiện tại vẫn đặt ra những rủi ro cần lưu ý.
Đơn cử, tỷ lệ tín dụng/GDP ở mức trên 130% cuối 2024 phản ánh sự phụ thuộc lớn vào ngân hàng; nợ xấu có xu hướng gia tăng khi một số phân khúc bất động sản, trái phiếu còn cần thời gian tái cơ cấu; áp lực tỷ giá từ biến động đồng USD và chính sách thương mại Hoa Kỳ vẫn hiện hữu.
Đây là những nhân tố có thể khuếch đại rủi ro nếu tăng trưởng tín dụng những tháng cuối năm buộc phải “nhảy vọt” để đạt mục tiêu cả năm.
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp có dấu hiệu phục hồi mạnh sau giai đoạn trầm lắng 2022 - 2023. Ảnh minh hoạ
3 trụ cột để hệ thống tài chính bền vững
Trước những diễn biến trên, GS.TS Trần Thọ Đạt cho rằng, điều hành chính sách tài chính cần song hành hai mục tiêu vừa đảm bảo an toàn hệ thống, vừa duy trì đà tăng trưởng. Trong ngắn hạn, việc vận hành chính sách tiền tệ cần theo “tam giác mục tiêu” là kiểm soát lạm phát kỳ vọng quanh 4%, giữ ổn định tỷ giá theo hướng linh hoạt hai chiều và duy trì lãi suất cho vay ở mức hợp lý 6 - 7%/năm đối với lĩnh vực ưu tiên.
“Để làm được điều này, Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp đồng bộ các công cụ như nghiệp vụ thị trường mở, tín phiếu, hoán đổi ngoại tệ và bán ngoại tệ kỳ hạn, đồng thời phát tín hiệu rõ ràng để neo giữ kỳ vọng thị trường”, GS.TS Trần Thọ Đạt khẳng định.
Cùng với đó, việc phân bổ hạn mức tín dụng cần có điều kiện. Những ngân hàng duy trì tỷ lệ an toàn vốn (CAR) và thanh khoản (LCR) đạt chuẩn, đồng thời bảo đảm tối thiểu 60 - 70% tín dụng mới dành cho các lĩnh vực ưu tiên, mới được xem xét nới “room”.
Ngược lại, tín dụng cho bất động sản đầu cơ, trái phiếu đảo nợ hay chứng khoán phái sinh phải chịu hệ số rủi ro cao hơn hoặc yêu cầu trích lập dự phòng bổ sung.
Đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp, ông khuyến nghị cần tăng kỷ luật minh bạch bằng việc công bố thông tin theo chuẩn mực gần với IFRS, bắt buộc xếp hạng tín nhiệm với trái phiếu bất động sản giá trị lớn, đồng thời xây dựng cơ chế cảnh báo sớm cho các đợt đáo hạn 2025 - 2027. Điều này giúp hạn chế nguy cơ căng thẳng thanh khoản trở lại.
Việc xử lý tổ chức tín dụng yếu kém cũng cần thận trọng. Chính sách giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ giải phóng một phần thanh khoản, nhưng cần đi kèm “vành đai an toàn” là giới hạn tăng trưởng tín dụng dựa trên hệ thống đánh giá sự chịu đựng rủi ro, kế hoạch tăng vốn 2 - 3 năm, áp dụng sớm Basel III và kiểm toán độc lập thường niên. Có như vậy, việc tái cơ cấu mới không tạo rủi ro tập trung cho toàn hệ thống.
Ở tầm trung hạn 2026 - 2030, theo GS.TS Trần Thọ Đạt, ưu tiên lớn nhất là tái cấu trúc hệ thống tài chính để nâng cao sức chống chịu. Mục tiêu là giảm tỷ lệ tín dụng/GDP xuống mức hợp lý 100 - 110%, tăng tỷ trọng vốn từ thị trường trái phiếu, cổ phiếu và quỹ đầu tư dài hạn. Việc thúc đẩy tài chính xanh và chuyển đổi số cũng cần được đặt thành trọng tâm.
"Trong đó, tín dụng xanh nên chiếm 15% tổng dư nợ vào năm 2030, trái phiếu xanh chiếm 10 - 12% giá trị phát hành. Đây là hướng đi vừa giảm rủi ro môi trường, vừa mở ra cơ hội phát triển bền vững cho doanh nghiệp”, ông nói.
Quan trọng hơn, hệ thống tài chính phải định hướng phân bổ vốn vào các ngành động lực như công nghiệp chế biến chế tạo, công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, kinh tế số, năng lượng sạch. Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Kinh tế quốc dân nhấn mạnh và cho biết, chỉ khi vốn chảy vào những lĩnh vực này, Việt Nam mới có thể nâng năng suất lao động, cải thiện năng lực cạnh tranh và tiến gần hơn tới khát vọng phát triển đến 2045.
Theo GS.TS Trần Thọ Đạt, Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Kinh tế quốc dân, bức tranh 8 tháng đầu năm 2025 cho thấy, hệ thống tài chính - ngân hàng Việt Nam đang đóng vai trò trung tâm trong phục hồi và tăng trưởng. Nhưng tính bền vững chỉ có thể được đảm bảo nếu mọi chính sách hỗ trợ đặt trên nền tảng ổn định vĩ mô, kỷ luật thị trường và định hướng nâng cao năng suất. Một hệ thống tài chính an toàn, minh bạch và đa tầng không chỉ giúp Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh trong thập kỷ tới, mà còn củng cố niềm tin nhà đầu tư, nâng cao vị thế quốc gia và đưa nền kinh tế vững vàng hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.