Đóng

Nâng giá trị sản phẩm vùng dân tộc bằng ‘cánh cửa’ online

Bằng chất lượng, câu chuyện văn hoá vùng miền, thông qua kênh thương mại điện tử, sản phẩm vùng dân tộc và miền núi sẽ đến gần hơn với người tiêu dùng.

Đa dạng sản phẩm vùng dân tộc thiểu số và miền núi tỉnh Khánh Hòa Sơn La: Điểm sáng từ các chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm vùng dân tộc Chung tay tiêu thụ sản phẩm của bà con vùng dân tộc

Chuyên gia kinh tế Vũ Vinh Phú đã có cuộc trao đổi với phóng viên Báo Công Thương về giải pháp để quảng bá, tăng tiêu thụ sản phẩm của bà con vùng dân tộc thiểu số và miền núi thông qua mạng xã hội và các sàn thương mại điện tử.

Chuyên gia kinh tế Vũ Vinh Phú

Điểm yếu trong xây dựng thương hiệu nông sản vùng dân tộc

Thưa ông, sản phẩm của bà con đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có đặc điểm là thường có câu chuyện văn hoá phía sau sản phẩm. Theo đánh giá của ông, thời gian qua, những câu chuyện này đã được các hợp tác xã, doanh nghiệp tận dụng tốt hay chưa trong việc tiêu thụ sản phẩm cũng như gia tăng giá trị cho sản phẩm thông qua xây dựng thương hiệu từ chính các sản phẩm này?

Chuyên gia Vũ Vinh Phú: Việt Nam có hàng ngàn sản phẩm đặc trưng của bà con đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, có chất lượng và có câu chuyện văn hoá rất hấp dẫn phía sau.

Ví dụ như nói đến chè Shan tuyết là nói đến Hà Giang, Yên Bái với những vùng chè cổ thụ thân mọc rêu xanh, búp trắng xoá và có vị chát ngọt vô cùng đặc biệt. Từ một sản phẩm địa phương ít người biết đến, hiện nay, chè Shan tuyết đã trở thành một trong những sản phẩm vô cùng có giá trị của bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cùng với việc tiêu thụ sản phẩm, người tiêu dùng cũng tiêu thụ cả những câu chuyện đặc biệt về văn hoá của cả một vùng miền.

Bà con vùng dân tộc có nhiều loại nông sản đặc trưng, giá trị (Ảnh: Phương Lan)

Hoặc nói đến rau quả, trước đây chúng ta chỉ nói đến khu vực đồng bằng sông Cửu Long với những miệt vườn đầy hoa thơm trái ngọt. Nhưng những năm gần đây, chúng ta đã biết đến Sơn La như một vựa rau quả rất lớn của miền Bắc. Câu chuyện của rau quả Sơn La là câu chuyện về người nông dân một nắng hai sương trồng thành công trái dâu tây với chất lượng không thua kém sản phẩm của Hàn Quốc, được ưu ái đưa lên Vietnam Airline. Hay câu chuyện về trái xoài được xuất khẩu đến châu Âu, có trọng lượng chỉ 800 gram/quả song thịt dày, vị ngọt vô cùng đặc trưng. Hoặc câu chuyện về trái mận hậu to bằng nửa nắm tay, vị chua ngọt đặc trưng do được “tắm” trong tiết trời đặc trưng Tây Bắc… Có được điều này là nhờ nỗ lực của địa phương, các Bộ ngành, doanh nghiệp trong việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm.

Do đó tôi cho rằng, thời gian qua, hoạt động xây dựng thương hiệu cho sản phẩm địa phương phần nào đã thành công và mang lại hiệu quả tích cực trong việc nâng tầm giá trị sản phẩm.

- Hiệu quả là có, song cũng có nhiều ý kiến cho rằng việc xây dựng thương hiệu cho nông sản của vùng miền núi vẫn còn vô vàn hạn chế. Quan điểm của ông về vấn đề này ra sao?

Chuyên gia Vũ Vinh Phú: Song song với những kết quả khả quan nói trên, cũng phải nói rằng, hiện nay, vẫn còn rất nhiều sản phẩm chất lượng của bà con chưa được nhiều người biết đến, với những hạn chế cả về số lượng không nhiều, khó có thể kinh doanh đều đặn ở các kênh phân phối, hoặc các địa phương chưa quan tâm đến quảng bá sản phẩm.

Chưa kể, ở khu vực này cũng chưa định hình được các sản phẩm riêng với thương hiệu riêng biệt. Ví dụ nói đến mật ong miền núi, ai cũng biết đây là sản phẩm đặc trưng và rất có chất lượng của bà con, song Hà Giang cũng có mật ong, Bắc Giang cũng có mật ong, Sơn La cũng có mật ong... Nhưng mật ong của địa phương nào có chất lượng gì? Thương hiệu mật ong của doanh nghiệp là gì thì lại chưa được biết đến.

Cho nên, từ các bài học thành công, tôi cho rằng dư địa để xây dựng thương hiệu cho sản phẩm từ những câu chuyện đặc biệt về sản phẩm vẫn còn rất nhiều.

Tận dụng tốt hơn “cánh cửa” online

- Thời gian qua, mạng xã hội và thương mại điện tử nổi lên như một kênh tiêu thụ sản phẩm vô cùng hiệu quả. Hiện nay, khi quảng bá tiêu thụ sản phẩm trên các nền tảng như Tiktok, có thể thấy, các video về sản phẩm, hàng hoá của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đều nhận được tương tác rất cao. Ông đánh giá gì về việc tận dụng thương mại điện tử và mạng xã hội để đưa sản phẩm đến gần hơn với người tiêu dùng cũng như định vị thương hiệu sản phẩm?

Chuyên gia Vũ Vinh Phú: Chúng ta đang sống ở thời đại 4.0, và thương mại điện tử là điều buộc phải tận dụng, với những ưu điểm vô cùng lớn.

Thương mại điện tử là "cánh cửa" tiêu thụ nông sản hiệu quả (Ảnh: Ngọc Hà)

Năm 2024, quy mô thị trường thương mại điện tử Việt Nam đã vượt mốc 25 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2023, chiếm tỷ trọng khoảng 9% so với tổng mức bán lẻ hàng hóa và con số 30 tỷ USD là con số sẽ sớm đạt được. Do đó, tôi cho rằng đây phải là kênh mà doanh nghiệp cần tận dụng.

Thương mại điện tử và mạng xã hội cũng là kênh để giúp chúng ta dễ tiếp cận với người tiêu dùng trẻ tuổi nhờ sự lan toả và tương tác rất lớn. Sản phẩm của bà con lại có câu chuyện rất hay, cho nên tôi cho rằng việc quảng bá trên mạng xã hội sẽ rất dễ dàng. Câu chuyện về sản phẩm là câu chuyện vô cùng độc đáo, độc bản, khi được quảng bá bằng các video ngắn sẽ đến với người tiêu dùng dễ dàng hơn.

"Chìa khoá" là chất lượng sản phẩm

- Dù có tiềm năng lớn song thương mại điện tử vẫn còn tồn tại những câu chuyện tranh cãi liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng nhái hàng giả. Ông có những khuyến nghị ra sao để giải quyết vấn đề này?

Chuyên gia Vũ Vinh Phú: Thương mại điện tử hay mạng xã hội là công cụ quảng bá sản phẩm vô cùng hiệu quả, đặc biệt với các sản phẩm của bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng các doanh nghiệp trên sàn thương mại điện tử vẫn còn những tồn tại liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, công tác chống hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Điều này dẫn đến việc người tiêu dùng bị hạn chế trong việc đánh giá chất lượng sản phẩm, dễ bị lừa đảo. Đặc biệt, do phương thức cạnh tranh trên thương mại điện tử hiện nay hầu hết là về giá và chương trình khuyến mại, hình thức cạnh tranh bằng tín nhiệm chưa được phổ biến, khiến thị trường thương mại điện tử phát triển không được lành mạnh và bền vững, ảnh hưởng đến sự lớn mạnh của doanh nghiệp và cơ sở sản xuất liên quan.

Chưa kể, thời gian qua, còn một số câu chuyện lùm xùm liên quan đến một số KOL khiến việc quảng bá, tiêu thụ sản phẩm trên sàn thương mại điện tử ít nhiều bị ảnh hưởng.

Đặc biệt, các hợp tác xã khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay 100% là nông dân, kiến thức về công nghệ gần như bằng 0, vì vậy việc khai thác và sử dụng các nền tảng số một cách hiệu quả cao vẫn còn hạn chế. Do đó, tôi cho rằng, các chính sách của Bộ Công Thương dành cho công tác xây dựng thương hiệu cần phải tiếp tục được triển khai và triển khai mạnh hơn nữa.

Về phía các hợp tác xã, cần đào tạo nhân viên chuyên nghiệp trong quảng bá sản phẩm, không nói quá, tránh làm ảnh hưởng đến niềm tin của người tiêu dùng. Việc sử dụng người nổi tiếng để quảng bá sản phẩm có thể áp dụng trong giai đoạn đầu, và không được lợi dụng, làm quá và quảng bá không đúng bản chất sản phẩm.

Tôi cho rằng, chìa khoá trong quảng bá và xây dựng hình ảnh thương hiệu sản phẩm của bà con đồng bào dân tộc thiểu số chính là tính chân thật. Làm được điều đó, sẽ không lo sản phẩm không có được đầu ra.

Xin cảm ơn ông!

Theo Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam, hiện bình quân mỗi tháng đang có 2,5 triệu phiên bán hàng trên livestream, với sự tham gia của hơn 50.000 nhà bán hàng. Tỷ lệ mua hàng qua kênh livestream ngày càng tăng khi có tới 76% người tiêu dùng quyết định mua sắm/sử dụng dịch vụ dựa trên đề xuất của người dùng cũ. Do đó, thương mại điện tử sẽ vẫn là kênh quảng bá, tiêu thụ sản phẩm hữu ích.
Phương Lan thực hiện