Khi bão Kalmaegi quét dọc miền Trung đầu tháng 11/2025, cả dải đất ven biển chìm trong gió giật, mưa xối và hàng loạt tuyến đường bị chia cắt. Giữa mênh mông nước, những bóng áo cam - "chiến binh của ngành điện" lại xuất hiện ở những nơi mà người ta ít mong đợi nhất: Trên các tuyến đường dây bị đổ gãy, bên cạnh những cột điện ngập nửa, hay trên chiếc thuyền nhỏ chòng chành đưa thiết bị vào khu vực sạt lở.
Ở thời điểm bão tan chưa đầy vài giờ, khi nước còn đục ngầu và đất đá vẫn chực trượt xuống, ngành điện đã bắt đầu bước vào một cuộc “tác chiến” quen thuộc nhưng chưa bao giờ bớt gian nan: Khôi phục ánh sáng cho người dân, cho nhà máy, cho sản xuất và cho cả nền kinh tế.
Khi bão "gõ cửa" và lưới điện trở thành tuyến đầu
Trong vài năm gần đây, thiên tai dường như không còn đi theo quy luật cũ. Tháng 9/2025, bão số 10 (Bualoi) khiến hơn 2.6 triệu khách hàng bị ảnh hưởng, làm hư hỏng nhiều đường dây 110kV và trung hạ thế ở miền Bắc. Chỉ một tháng sau, các cơn bão Matmo và Fengshen tiếp tục đánh vào dải miền Trung - Tây Nguyên khiến hàng trăm ngàn hộ dân mất điện, hạ tầng bị xé toạc từng đoạn. Và đến cuối năm 2025, bão Kalmaegi lại tiếp tục nhấn chìm nhiều địa phương, buộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) phải huy động hơn 1.300 cán bộ, công nhân ứng trực và khẩn trương sửa chữa, ngành điện đã khôi phục cấp điện cho gần 1,5 triệu khách hàng, tương đương 90,52% tổng số khách hàng bị ảnh hưởng, trong thời gian rất ngắn.
Ngành điện hứng chịu những thiệt hại không hề nhỏ trong mưa bão. Ảnh: Hồng Hoa
Nhìn bề ngoài, đó chỉ là những con số. Nhưng nếu đặt mình vào vị trí một người thợ điện đang đứng trong dòng nước lạnh ngắt, tay bám vào cột, đèn đội đầu chiếu một vệt sáng mỏng vào màn mưa dày đặc, ta sẽ hiểu rằng phía sau mỗi phần trăm khôi phục là một phần mệt mỏi của con người. Lưới điện không chỉ là hệ thống kỹ thuật mà là dây nối đời sống: Một bóng đèn trong phòng bệnh, một máy thở trong bệnh viện, một trạm bơm nước sinh hoạt, một dây chuyền đang chạy trong khu công nghiệp. Mỗi giây mất điện là mỗi giây xã hội hụt nhịp theo.
Và phía sau đó là một hệ thống hạ tầng rộng khắp, phức tạp, dễ tổn thương và đòi hỏi khả năng phản ứng cực nhanh. Lưới điện trải dài qua đồi núi, ven sông, xuyên qua những khu vực dân cư dày đặc, nơi bất cứ biến động thời tiết nào cũng có thể gây ra sự cố dây đứt, cột nghiêng, trạm biến áp ngập nước.
Trong suốt các đợt thiên tai gần đây, những hình ảnh từ hiện trường cho thấy công việc khắc phục chưa bao giờ là một nhiệm vụ giản đơn. Ở nhiều nơi, nước dâng cao khiến xe chuyên dụng không thể tiếp cận; công nhân phải đưa thiết bị lên thuyền, thậm chí đi bộ nhiều giờ đồng hồ qua các điểm sạt lở để đến được vị trí cột điện hư hại.
Trong những ngày bão Kalmaegi còn quần thảo miền Trung, nếu đứng ở bất cứ con phố nào, từ những mái nhà ngập nước ở Quảng Trị đến những đoạn đường sạt lở ở Gia Lai, người ta đều thấy một điểm chung: Ánh đèn pin quét vào không gian ướt mưa, thấp thoáng sau lớp áo cam ướt đẫm của những người thợ điện. Họ xuất hiện trong lặng lẽ, như thể đã quen thuộc với việc đi vào nơi người khác đang tìm cách rời khỏi. Bão tan chưa kịp, mưa chưa kịp ngớt, nhưng ngành điện đã bắt đầu cuộc chạy đua không lời: làm sao đưa ánh sáng trở lại thật nhanh, thật an toàn, cho từng ngôi nhà và từng mạch sống kinh tế.
Tại Hà Tĩnh, lực lượng sửa chữa phải "ăn trên cột điện, ngủ tại hiện trường". Đêm xuống, họ ngả lưng trên thùng xe, trên nền xi măng còn ướt, tạm chợp mắt vài giờ để sáng sớm lại tiếp tục leo cột, nối dây. Ở Gia Lai, chỉ trong vài ngày, ngành điện đã khôi phục 135 trên 208 vụ sự cố, cấp điện trở lại cho hơn 98,7% khách hàng trong điều kiện mưa lớn kéo dài và nhiều vùng trũng vẫn còn ngập.
"Chiến sĩ áo cam" và câu chuyện bảo vệ an ninh năng lượng
Hàng chục năm qua, “chiến sĩ áo cam” đã trở thành hình ảnh quen thuộc mỗi khi bão về. Nhưng càng về sau, tính chất công việc càng áp lực hơn bởi thiên tai diễn ra với tần suất dày và mức độ cực đoan hơn. Những đợt mưa lũ lịch sử, vốn từng hiếm gặp, nay xuất hiện theo chu kỳ chỉ vài năm. Nhiều đoạn đường dây đi qua khu vực rừng phòng hộ hay triền sông vốn ổn định nay bỗng trở thành điểm sạt lở mới. Công tác duy tu, kiểm tra hành lang tuyến vốn làm theo định kỳ thì nay phải tăng cường đột xuất liên tục. Điều đó đặt ngành điện vào trạng thái “trực chiến” nhiều hơn là “trực ca”.
Cán bộ ngành điện ở Đắk Lắk ngâm mình trong nước để khắc phục sự cố đường dây hỏng do bão số 13. Ảnh: Hồng Hoa
Sự chủ động trong ứng phó hiện nay phần lớn dựa vào mô hình phản ứng nhanh mà EVN đã xây dựng trong nhiều năm. Trước mỗi cơn bão lớn, EVN ban hành công điện khẩn, yêu cầu các tổng công ty rà soát phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, chuẩn bị vật tư dự phòng, thiết bị cơ động, huy động thêm lực lượng khi cần.
Sau bão, việc đánh giá thiệt hại được thực hiện theo nguyên tắc “khôi phục đến đâu, an toàn đến đó”, không đóng điện khi khu vực còn ngập sâu để tránh nguy cơ tai nạn. Nhiều người dân đôi khi không hiểu vì sao “trời tạnh rồi mà vẫn chưa có điện”, nhưng với ngành điện, quyết định “kìm tay” đôi lúc chính là cách giữ an toàn cho cộng đồng.
Điểm đáng chú ý là các tổng công ty điện lực ngày càng phối hợp liên vùng hiệu quả hơn. Khi miền Bắc bị ảnh hưởng nặng, lực lượng từ miền Trung và miền Nam sẵn sàng chi viện. Khi miền Trung gặp mưa lũ, các đơn vị miền Bắc lập tức vào hỗ trợ. Sự liên kết ấy không chỉ mang ý nghĩa hỗ trợ nhân lực mà còn thể hiện tính “quốc gia” của ngành điện, một hệ thống mà ở bất kỳ vùng nào cũng có trách nhiệm bảo vệ mạch sống chung của đất nước.
Tuy vậy, những nỗ lực hiện tại dù rất đáng trân trọng vẫn chưa đủ để giúp lưới điện “sống chung với khí hậu cực đoan”. Hạ tầng lưới điện Việt Nam vẫn tồn tại không ít nhược điểm: Nhiều khu vực xuống cấp; không ít đường dây đi qua địa hình phức tạp; tỷ lệ ngầm hóa còn thấp; hành lang tuyến tại các đô thị bị ảnh hưởng bởi mật độ cây xanh dày, còn vùng núi lại bị tác động bởi sạt lở tự nhiên. Việc ứng dụng công nghệ số dù đã triển khai khá mạnh nhưng vẫn chưa phủ đều.
Trong bối cảnh tần suất thiên tai tăng mạnh, ngành điện cũng cần tính đến cơ chế tài chính đặc thù. Những thiệt hại do bão lũ gây ra không nhỏ, nhưng cơ chế bảo hiểm rủi ro thiên tai cho lưới điện còn khá mờ nhạt. Chi phí khôi phục chủ yếu dựa vào nguồn lực tự cân đối, khiến sức chịu đựng tài chính bị bào mòn qua thời gian. Trong khi đó, các quốc gia chịu thiên tai nhiều như Nhật Bản hay Philippines đã hình thành mô hình “quỹ an ninh hạ tầng”, giúp phân tán rủi ro và duy trì đầu tư bền vững hơn.
Cán bộ ngành điện nối lại đường dây điện giữa bối cảnh nước ngập nửa người. Ảnh: Hồng Hoa
Một hướng mở khác là quy hoạch phòng chống thiên tai trong phát triển điện lực. Quy hoạch Điện VIII đề cập đến việc tăng cường độ bền lưới truyền tải, nhưng việc triển khai thực tế cần được đẩy nhanh hơn trong bối cảnh biến đổi khí hậu vượt xa dự báo. Ngành điện không thể “một mình chống bão” nếu không có sự phối hợp của giao thông, xây dựng, nông nghiệp trong quy hoạch hành lang, thoát lũ, xử lý cây xanh, phòng chống sạt lở. Đây là bài toán liên ngành, cần tư duy tổng thể, chứ không chỉ là trách nhiệm của riêng EVN.
Dẫu vậy, giữa những thách thức lớn, hình ảnh người thợ điện kiên trì bám trụ trong mưa gió vẫn là biểu tượng truyền cảm hứng mạnh mẽ. Đó không chỉ là câu chuyện của một nghề nghiệp mà còn là câu chuyện về trách nhiệm công dân, trách nhiệm bảo vệ mạch sống cho từng gia đình, từng doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Khi bão tan, ánh sáng bật lên trở lại, ít ai biết rằng có những đôi bàn tay đã phồng rộp, có những đêm trắng không ngủ, có những bữa cơm vội giữa gió mưa. Chính họ, những chiến sĩ áo cam, là những người đang giữ sự ổn định cho an ninh năng lượng và cho cả niềm tin xã hội.
Trong kỷ nguyên khí hậu cực đoan, sẽ còn nhiều thử thách đợi phía trước. Nhưng nếu nhìn những đôi giày lấm bùn, những bàn tay chai sần và những vệt sáng nhỏ nhoi trên đỉnh cột điện trong đêm, ta hiểu rằng ánh sáng sẽ luôn trở lại. Bởi có những con người đã chọn ở lại với công việc này, những người giữ mạch sống cho đất nước bằng tất cả sự bền bỉ trong trái tim mình.