Suốt nhiều năm qua, ngành công nghiệp điện tử Việt Nam được xem như “người khổng lồ” của nền kinh tế, đóng vai trò động lực tăng trưởng hàng đầu với những kỷ lục xuất khẩu liên tiếp được thiết lập. Việt Nam hiện xếp thứ 5 thế giới về xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện, và giữ vị trí thứ 2 toàn cầu về xuất khẩu điện thoại và linh kiện.
Riêng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu điện tử đạt tới 134,5 tỷ USD. Thế nhưng, phía sau những con số ấn tượng ấy là một nghịch lý khó bỏ qua đó là “người khổng lồ” này vẫn đang đứng trên đôi chân chưa hoàn toàn thuộc về mình.
Để hiểu rõ hơn về nội dung này, phóng viên Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với TS. Nguyễn Thị Thu Hường, Phó Trưởng Bộ môn, phụ trách Bộ môn Logistics, Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải.
Ngành điện tử Việt trước “bão” biến động toàn cầu
- Thưa bà, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, những khó khăn lớn nhất mà ngành điện tử Việt Nam đang phải đối mặt là gì?
TS. Nguyễn Thị Thu Hường: Theo tôi, ngành công nghiệp điện tử Việt Nam đang chịu tác động nhất định từ những biến động chưa từng có trong hơn một thập kỷ qua.
Một là biến động kinh tế, địa chính trị toàn cầu: Căng thẳng thương mại kéo dài, xung đột Nga - Ukraine và tình hình bất ổn tại Trung Đông đã làm đứt gãy một số tuyến vận tải biển quan trọng, đặc biệt là tuyến qua kênh đào Suez và eo biển Hormuz. Điều này khiến thời gian vận chuyển linh kiện, nguyên liệu điện tử về Việt Nam kéo dài từ 20-30%, chi phí vận tải tăng 1,5-2 lần so với trước đại dịch.
TS. Nguyễn Thị Thu Hường, Phó Trưởng Bộ môn, phụ trách Bộ môn Logistics, Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải. Ảnh: NVCC
Hai là suy giảm đơn hàng từ thị trường xuất khẩu chủ lực: Các thị trường Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản chiếm hơn 60% kim ngạch xuất khẩu điện tử của Việt Nam đang chứng kiến nhu cầu tiêu dùng giảm do lãi suất cao và áp lực lạm phát. Năm 2024, xuất khẩu điện tử của Việt Nam giảm 2,7% so với năm trước.
Ba là áp lực tiêu chuẩn xanh hóa: Quy định mới từ EU (như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon CBAM) và Mỹ yêu cầu sản phẩm điện tử phải đáp ứng tiêu chuẩn môi trường, tiết kiệm năng lượng và truy xuất nguồn gốc toàn chuỗi. Phần lớn doanh nghiệp Việt chưa đầu tư đủ để đáp ứng, dẫn tới nguy cơ mất đơn hàng.
Bốn là phụ thuộc nguồn cung bên ngoài: Khoảng 85% linh kiện điện tử của Việt Nam phải nhập khẩu, chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Khi một mắt xích gặp sự cố, cả dây chuyền sản xuất bị ảnh hưởng. Đặc biệt, với các linh kiện bán dẫn, vi mạch Việt Nam gần như phụ thuộc hoàn toàn.
- Đâu là các “điểm nghẽn” lớn nhất trong chuỗi cung ứng và sản xuất điện tử của Việt Nam khiến doanh nghiệp khó bứt phá?
TS. Nguyễn Thị Thu Hường: Tôi cho rằng có 3 điểm nghẽn chiến lược:
Thứ nhất, phụ thuộc nguyên liệu và linh kiện nhập khẩu. Tỷ lệ nội địa hóa thấp: Trong mảng điện tử tiêu dùng (tivi, điện thoại, thiết bị gia dụng), tỷ lệ nội địa hóa của Việt Nam chỉ đạt khoảng 20-25%. Với các sản phẩm điện tử công nghệ cao như máy tính, thiết bị viễn thông, linh kiện bán dẫn, con số này còn thấp hơn chỉ khoảng 10-15%.
Nguyên nhân là do công nghiệp hỗ trợ trong nước phát triển chậm, quy mô sản xuất nhỏ, thiếu doanh nghiệp chuyên sản xuất linh kiện, vật liệu đạt chuẩn quốc tế (như bo mạch chủ, module camera, chip điều khiển, tụ điện công suất cao).
Điều đó dẫn đến hệ quả mỗi khi nguồn cung linh kiện từ các thị trường chính (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản) bị gián đoạn thì dây chuyền sản xuất tại Việt Nam lập tức bị đình trệ. Khiến doanh nghiệp mất đơn hàng hoặc chậm tiến độ giao hàng, gây thiệt hại cả về doanh thu lẫn uy tín.
Ngành điện tử Việt đối diện thách thức nhưng cũng rộng mở cơ hội, đón dòng vốn đầu tư mới để bứt phá trong chuỗi giá trị toàn cầu. Ảnh minh họa
Thứ hai, khoảng trống về công nghệ lõi. Gia công là chủ yếu: Doanh nghiệp điện tử Việt chủ yếu đảm nhận khâu lắp ráp cuối cùng, đóng gói, kiểm tra chất lượng vốn chiếm tỷ lệ giá trị gia tăng thấp nhất (chỉ khoảng 5-10%) trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Ngoài ra, còn thiếu làm chủ khâu “trái tim” của sản phẩm: Các khâu như thiết kế sản phẩm, phát triển phần mềm nhúng, chế tạo chip, nghiên cứu vật liệu mới vốn chiếm 40-60% giá trị sản phẩm điện tử gần như nằm ngoài khả năng của phần lớn doanh nghiệp Việt.
Do thiếu công nghệ lõi, chúng ta phụ thuộc vào chiến lược sản phẩm, mẫu mã và tiêu chuẩn kỹ thuật của các tập đoàn FDI. Khi họ thay đổi công nghệ hoặc dịch chuyển sản xuất sang quốc gia khác, doanh nghiệp Việt khó chủ động thích ứng.
Thứ ba, liên kết yếu giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước. Sự tách biệt rõ rệt: Khu vực FDI hiện đóng góp hơn 95% kim ngạch xuất khẩu điện tử của Việt Nam. Tuy nhiên, tỷ lệ mua hàng từ doanh nghiệp nội địa chỉ dao động 5-10% và chủ yếu là vật tư, bao bì, chi tiết cơ khí đơn giản, giá trị thấp.
Nguyên nhân là do doanh nghiệp nội khó đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng, kiểm soát lỗi… Quy mô sản xuất nhỏ, chưa đủ năng lực cung ứng hàng loạt với thời gian giao hàng nghiêm ngặt. Thiếu kết nối thông tin và kênh giới thiệu để doanh nghiệp Việt tiếp cận các tập đoàn FDI.
Sự rời rạc này khiến dòng chảy công nghệ, bí quyết quản trị sản xuất từ FDI sang doanh nghiệp trong nước bị hạn chế. Ngay cả khi FDI mở rộng nhà máy, cơ hội lan tỏa lợi ích và nâng cấp năng lực cho doanh nghiệp Việt vẫn rất nhỏ.
Động cơ kép cho điện tử Việt
- Đổi mới công nghệ và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ đóng vai trò như thế nào trong việc nâng sức cạnh tranh cho ngành điện tử?
TS. Nguyễn Thị Thu Hường: Theo tôi, đây là hai yếu tố mang tính xương sống, quyết định việc Việt Nam có thoát khỏi “bẫy gia công” hay không.
Về đổi mới công nghệ: Các xu hướng như sản xuất thông minh, tự động hóa robot, AI tích hợp trong sản phẩm và công nghệ sản xuất xanh đang định hình lại ngành điện tử toàn cầu. Nếu không nhanh chóng đầu tư, doanh nghiệp Việt sẽ bị loại khỏi chuỗi cung ứng trong 5-7 năm tới.
Đặc biệt, công nghệ bán dẫn và thiết kế vi mạch đang trở thành điểm then chốt. Theo dự báo của PwC, thị trường bán dẫn Việt Nam có thể đạt 6,16 tỷ USD vào năm 2030 nếu tận dụng tốt cơ hội dịch chuyển chuỗi cung ứng.
Về nguồn nhân lực chất lượng cao: Ngành điện tử cần đội ngũ kỹ sư có khả năng thiết kế, vận hành dây chuyền công nghệ cao, R&D sản phẩm mới, và đáp ứng chuẩn quốc tế. Việt Nam hiện thiếu khoảng 50.000-70.000 nhân lực điện tử, bán dẫn trình độ cao. Các chương trình liên kết đào tạo giữa đại học và doanh nghiệp, hay việc thu hút chuyên gia nước ngoài, là giải pháp cấp bách.
Đào tạo nhân lực không chỉ đáp ứng hiện tại mà phải đón đầu xu hướng, ví dụ kỹ sư thiết kế chip, kỹ thuật viên bảo trì robot công nghiệp, chuyên gia về IoT và an ninh mạng cho thiết bị điện tử.
Xin cảm ơn bà!
Xuất khẩu ngành điện tử tăng trưởng mạnh, giữ vững vị thế ngành mũi nhọn trong cơ cấu xuất khẩu của cả nước. Tuy vậy, ngành điện tử Việt đang gặp phải những khó khăn, thách thức. Đó là 100% giá trị xuất khẩu điện thoại từ các doanh nghiệp FDI, hơn 80% linh kiện điện thoại phải nhập khẩu, hơn 90% nhà cung ứng cấp 1 đều là doanh nghiệp nước ngoài. R&D trong doanh nghiệp còn hạn chế, chủ yếu đóng vai trò lắp ráp.