Tiêu hao nhiên liệu giảm trung bình 0,8%
Trong bối cảnh nhu cầu giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh năng lượng ngày càng cấp thiết, việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng xăng sinh học tại Việt Nam trở thành một hướng đi tất yếu.
Tại hội thảo quốc tế về “Phát triển nhiên liệu sinh học trong thời kỳ mới - những nhiệm vụ trọng tâm để kiến tạo tương lai nhiên liệu bền vững tại Việt Nam” được Bộ Công Thương tổ chức sáng 27/8, PGS.TS Phạm Hữu Tuyến, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu các nguồn động lực và Phương tiện tự hành, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã công bố kết quả nghiên cứu trong hơn 10 năm qua về hiệu quả của xăng sinh học E5, E10 đối với động cơ ô tô, xe máy tại Việt Nam.
Theo PGS.TS Phạm Hữu Tuyến, trung tâm đã bắt đầu triển khai các nghiên cứu, thử nghiệm từ năm 2010, 2011 với sự hỗ trợ của Bộ Công Thương và phối hợp chặt chẽ cùng doanh nghiệp sản xuất nhiên liệu ô tô, xe máy. Mục tiêu của các nghiên cứu nhằm đánh giá một cách toàn diện tính khả thi của xăng sinh học trên các phương tiện giao thông phổ biến, tạo cơ sở khoa học phục vụ lộ trình triển khai tại Việt Nam.
Các thí nghiệm được thực hiện theo phương pháp đối chứng: Cùng một loại động cơ, ô tô hoặc xe máy, chạy trong cùng điều kiện vận hành, so sánh giữa nhóm sử dụng xăng khoáng truyền thống và nhóm sử dụng xăng sinh học. Nhiên liệu thử nghiệm đa dạng gồm các loại xăng như RON92, E5 RON92, E10 RON92, sau đó mở rộng sang RON95, E5 RON95 và E10 RON95. Những chỉ số đánh giá tập trung vào công suất động cơ, mức tiêu hao nhiên liệu, phát thải HC, CO, NO ở nhiều chế độ vận hành khác nhau.
PGS.TS Phạm Hữu Tuyến phát biểu tại hội thảo quốc tế về “Phát triển nhiên liệu sinh học trong thời kỳ mới - những nhiệm vụ trọng tâm để kiến tạo tương lai nhiên liệu bền vững tại Việt Nam” được Bộ Công Thương tổ chức sáng 27/8. Ảnh: Phương Cúc
"Kết quả nghiên cứu cho thấy, công suất động cơ khi sử dụng E10 gần như không thay đổi so với xăng khoáng. Đáng chú ý, phát thải độc hại giảm mạnh: CO giảm tới 33%, HC giảm 18% khi chạy bằng E10 thay cho xăng khoáng.
Khả năng tăng tốc của phương tiện cũng được cải thiện rõ rệt. Với cùng một mẫu xe thử nghiệm, khi sử dụng E10, thời gian tăng tốc từ 0-100 km/h chỉ mất 15,7 giây, trong khi dùng xăng khoáng là 19 giây. Điều này chứng minh E10 không chỉ thân thiện với môi trường mà còn đem lại trải nghiệm vận hành tốt hơn", PGS.TS Phạm Hữu Tuyến cho hay.
Cũng theo PGS.TS Phạm Hữu Tuyến, khi tiến hành thử nghiệm bền bỉ trong điều kiện vận hành dài hạn, mức độ hao mòn động cơ khi sử dụng E10 tương đương xăng khoáng. Các chi tiết quan trọng như piston, xy-lanh, van đều không ghi nhận sự xuống cấp bất thường.
Tuy nhiên, với các phương tiện cũ sử dụng chế hòa khí hoặc sản xuất trước năm 2013, nhiên liệu E10 có thể gây ảnh hưởng đến một số chi tiết bằng cao su hoặc đồng trong hệ thống nhiên liệu. Ngược lại, với các xe đời mới, các hãng sản xuất đều xác nhận khả năng tương thích hoàn toàn. Đây là minh chứng rõ ràng cho thấy, cùng với tiến bộ công nghệ, xăng sinh học hoàn toàn có thể sử dụng đại trà mà không gây rủi ro kỹ thuật.
Nâng cao năng lực sản xuất xăng sinh học trong nước
PGS.TS Phạm Hữu Tuyến cho hay, Việt Nam hiện có hàng chục triệu xe máy, chiếm tỷ lệ áp đảo trong cơ cấu phương tiện giao thông. Do vậy, việc đánh giá tác động của xăng sinh học trên xe máy có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Theo nghiên cứu, các mẫu xe đời mới (sản xuất từ năm 2020) khi sử dụng E5 RON95 hay E10 RON95 đều có mức tiêu thụ nhiên liệu tương đương xăng khoáng. Trong khi đó, phát thải HC và CO giảm rõ rệt, giúp phương tiện dễ dàng đáp ứng các tiêu chuẩn kiểm soát khí thải dự kiến sẽ áp dụng nghiêm ngặt hơn trong thời gian tới. Đây là một lợi thế lớn của xăng sinh học trong chiến lược giảm ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn.
Từ những số liệu nghiên cứu, có thể khẳng định, xăng sinh học E10 mang lại nhiều lợi ích như: Giữ ổn định công suất động cơ, thậm chí cải thiện nhẹ hiệu suất; giảm mức tiêu hao nhiên liệu, tiết kiệm chi phí vận hành; giảm đáng kể phát thải độc hại, góp phần bảo vệ môi trường; không gây ảnh hưởng tiêu cực đến độ bền động cơ, trừ một số xe cũ cần thay thế chi tiết phù hợp.
PGS.TS Phạm Hữu Tuyến nhấn mạnh: “Xăng sinh học E10 là giải pháp hiệu quả, phù hợp với điều kiện Việt Nam, vừa giúp giảm ô nhiễm, vừa bảo đảm an ninh năng lượng. Đây là cơ sở khoa học quan trọng để khuyến khích, mở rộng sử dụng xăng sinh học trong thực tiễn.”
Tuy nhiên, để có thể áp dụng đại trà, theo các chuyên gia, Việt Nam cần một số giải pháp đồng bộ. Trước hết, cần có hướng dẫn kỹ thuật và khuyến cáo rõ ràng cho người sử dụng, đặc biệt là các phương tiện đời cũ. Song song, nên triển khai các chương trình hỗ trợ thay thế chi tiết, vật liệu không tương thích, giúp người dân yên tâm chuyển đổi.
"Ngoài ra, việc mở rộng hệ thống phân phối xăng sinh học cũng rất quan trọng, nhằm tạo thuận lợi cho người sử dụng và giảm tâm lý e ngại. Cùng với đó là các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất ethanol nhiên liệu trong nước, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu.
Xăng sinh học sẽ là bước đệm quan trọng trong lộ trình phát triển năng lượng xanh, góp phần thực hiện cam kết giảm phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050 của Việt Nam", PGS.TS Phạm Hữu Tuyến nói thêm.
Đến nay, xăng E10 đã bắt đầu được cung cấp thí điểm tại một số thành phố lớn (như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng) và bước đầu ghi nhận sự quan tâm tích cực từ người tiêu dùng. Các doanh nghiệp đầu mối như Petrolimex, PVOIL, Sài Gòn Petro… đã sẵn sàng về hạ tầng phối trộn và phân phối, bảo đảm cung ứng xăng E10 đồng bộ từ ngày 1/1/2026 trên phạm vi cả nước.