Nhập khẩu giảm tốc, thị trường xăng dầu chờ tín hiệu phục hồi
Thống kê cho thấy, trong tháng 10, nhập khẩu xăng dầu giảm tốc trong khi xuất khẩu tiếp tục suy yếu, phản ánh thị trường thiếu lực hỗ trợ và đang chờ tín hiệu phục hồi từ phía cung - giá.
Theo thống kê sơ bộ của Cục Hải quan, xuất khẩu xăng dầu của Việt Nam trong tháng 10/2025 giảm 14,4% về lượng và giảm 13,8% về kim ngạch so với tháng trước, đạt 108.419 tấn, trị giá 70,5 triệu USD. Tính chung 10 tháng năm 2025 xuất khẩu đạt 1.147.719 tấn, trị giá 774,8 triệu USD, giảm 42,2% về lượng và giảm 51,9% về trị giá. Diễn biến cho thấy hoạt động xuất khẩu đang thu hẹp nhanh và thiếu động lực từ nhu cầu khu vực.
Hàn Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu xăng dầu lớn nhất của Việt Nam, trong 10 tháng năm 2025, đạt 259.546 tấn, trị giá 204,9 triệu USD, tăng 32,7% về lượng và tăng 17,6% về trị giá so với cùng kỳ năm trước, chiếm hơn 22 - 26% tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu; riêng trong tháng 10/2025 đạt 18.108 tấn, trị giá 14,1 triệu USD, giảm 42% - 43% về lượng và trị giá.
Xuất khẩu xăng dầu sang thị trường Trung Quốc chiếm hơn 20 - 23% trong tổng lượng và kim ngạch, đạt 232.636 tấn, kim ngạch đạt 183,5 triệu USD, tăng 41,1% về lượng và tăng 21,1% về trị giá trong 10 tháng năm 2025; riêng tháng 10/2025 xuất khẩu giảm 16% về lượng và giảm 15,6% về trị giá.
10 tháng năm 2025, xuất khẩu đạt 1.147.719 tấn, trị giá 774,8 triệu USD, giảm 42,2% về lượng và giảm 51,9% về trị giá
Tiếp đến là thị trường Singapore chiếm 24,8% trong tổng lượng và 18,3% tổng kim ngạch, đạt 285.416 tấn, kim ngạch 142,4 triệu USD, tăng 16,9% về lượng và giảm 4,1% về trị giá; riêng tháng 10/2025 đạt 32.966 tấn, trị giá 14,1 triệu USD. Sau đó là thị trường Campuchia chiếm 17% trong tổng lượng và tổng kim ngạch, đạt 195.113 tấn, kim ngạch 138,8 triệu USD, giảm 41,5% về lượng và giảm 47,7% về trị giá; riêng tháng 10/2025 đạt 24.224 tấn, trị giá 17,2 triệu USD.
Thị trường Malaysia chiếm 6 - 9% về tổng lượng và tổng kim ngạch, đạt 107.906 tấn, kim ngạch 53,6 triệu USD, tăng 58,5% về lượng và tăng 77,8% về trị giá; riêng tháng 10/2025 đạt 6.847 tấn, trị giá 3,5 triệu USD.
Ở chiều ngược lại, trong tháng 10/2025 giảm 7,2% về lượng và giảm 7,8% về kim ngạch so với tháng trước đó, đạt 703.920 tấn. Tính chung trong 10 tháng năm 2025, lượng xăng dầu nhập khẩu đạt 8.328.355 tấn, trị giá 5,6 tỷ USD. Việt Nam nhập khẩu xăng dầu nhiều nhất từ Singapore trong 10 tháng năm 2025, chiếm 34 - 35% trong tổng lượng và kim ngạch nhập khẩu, đạt 2.873.717 tấn, trị giá 2,01 tỷ USD, tăng 33,5% về lượng và tăng 16% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2024; trong đó riêng tháng 10/2025 nhập khẩu tăng 26,6% về lượng và tăng 22,2% kim ngạch so với tháng 9/2025, đạt 233.907 tấn, trị giá 160,1 triệu USD.
Tiếp sau là thị trường Hàn Quốc, chiếm 27-28% trong tổng lượng và kim ngạch nhập khẩu trong 10 tháng năm 2025, đạt 2.348.190 tấn, trị giá 1,5 tỷ USD, giảm 10,9% về lượng và giảm 20,7% về kim ngạch; riêng tháng 10/2025 nhập khẩu đạt 152.880 tấn, trị giá 100,7 triệu USD, giảm 33,5% về lượng và giảm 34,5% về trị giá.
Thị trường Malaysia, 10 tháng năm 2025 chiếm 15 - 16% tỷ trọng trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu, giảm 26,2% về lượng và giảm 38,7% về kim ngạch, đạt 1.371.236 tấn, trị giá 901,9 triệu USD; riêng tháng 10/2025 nhập khẩu từ thị trường này giảm 27,9% về lượng và kim ngạch.
Nhập khẩu xăng dầu từ Trung Quốc chiếm 13% trong tổng lượng và tổng kim ngạch trong 10 tháng năm 2025, đạt 1.115.224 tấn, trị giá 784,2 triệu USD, tăng 15,5% về lượng và tăng 1,8% về trị giá. Riêng tháng 10/2025, nhập khẩu đạt 98.805 tấn, trị giá 72,2 triệu USD, giảm 5,2% về lượng và giảm 4,5% về trị giá.
Thị trường Thái Lan, 10 tháng năm 2025 chiếm 3% trong tổng lượng và kim ngạch nhập khẩu, giảm 50,5% về lượng và giảm 54,3% về kim ngạch, đạt 301.790 tấn, trị giá 214 triệu USD; riêng tháng 10/2025 nhập khẩu đạt 73.362 tấn, trị giá 51,1 triệu USD, tăng 4,1% về lượng và tăng 1,9% về trị giá.
Bức tranh xuất nhập khẩu xăng dầu những tháng cuối năm cho thấy sự phân hóa mạnh: Xuất khẩu suy yếu, nhập khẩu giảm tốc nhưng vẫn duy trì quy mô lớn. Thị trường đang nghiêng về trạng thái chờ đợi, thiếu động lực từ cả phía cung lẫn cầu. Nhu cầu nội địa, giá quốc tế và tiến độ dự trữ được dự báo là những yếu tố quyết định nhịp phục hồi trong thời gian tới.