Năm 1945, khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đất nước đứng trước muôn vàn khó khăn, hơn 90% dân số mù chữ. Trong bối cảnh đó, Chính phủ xác định xóa nạn mù chữ và chấn hưng giáo dục là nhiệm vụ cấp bách. Do đó, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền giáo dục mới, trước hết là xóa nạn mù chữ cho người dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Dốt thì dại, dại thì hèn. Vì không chịu dại, không chịu hèn cho nên thanh toán nạn mù chữ là một trong những việc cấp bách và quan trọng của nhân dân các nước dân chủ mới".
Giai đoạn 1945 -1954, giáo dục chuyển hướng thành “giáo dục kháng chiến”, lớp học được mở ở chiến khu, chương trình gắn với thực tiễn kháng chiến, đào tạo thế hệ “công dân kháng chiến”. Cuộc cải cách giáo dục 1950 thay hệ phổ thông 12 năm bằng hệ 9 năm, giúp tinh gọn bộ máy và phù hợp với điều kiện đất nước.
“Bình dân học vụ” là phong trào xóa nạn mù chữ trong toàn dân, được Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát động ngày 8/9/1945, ngay sau khi Việt Nam giành được độc lập, nhằm giải quyết "giặc dốt" - một trong các vấn đề cấp bách nhất của đất nước thời gian đó. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Đến năm 1954 -1975, giáo dục miền Bắc được cải cách toàn diện theo hướng xã hội chủ nghĩa, coi trọng nguyên lý “học đi đôi với hành, lý luận gắn liền thực tiễn”. Dù chiến tranh ác liệt, trường lớp vẫn duy trì ổn định, phong trào “Hai tốt” lan tỏa, hệ thống đại học phát triển nhanh. Ở miền Nam, giáo dục cách mạng trong vùng giải phóng cũng bền bỉ tồn tại, xây dựng trường lớp dân chủ, góp phần đào tạo cán bộ phục vụ kháng chiến.
Trong bức thư cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho ngành Giáo dục, ngày 15/10/1968, Bác tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu của nền giáo dục nước ta là phải gắng sức phấn đấu theo kịp với trình độ và chất lượng của các nước văn minh, tiên tiến: “Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật”. Cuối thư, Bác yêu cầu nền giáo dục nước nhà: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó”.
Do đó, sau ngày thống nhất (năm 1975), nhiệm vụ hàng đầu của ngành giáo dục là tiếp quản, cải tạo và thống nhất hệ thống giáo dục cả nước. Các trường tư thục được quốc hữu hóa, chiến dịch xóa mù chữ triển khai rộng khắp miền Nam. Từ năm 1979, cuộc Cải cách giáo dục lần thứ ba khởi động, chính thức xây dựng hệ phổ thông 12 năm trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, do đất nước khủng hoảng kinh tế, giáo dục gặp nhiều khó khăn như cơ sở vật chất thiếu thốn, giáo viên bỏ nghề, chất lượng giảm sút. Thành tựu lớn nhất giai đoạn này là thống nhất hệ thống giáo dục quốc dân, tạo nền tảng vững chắc cho chặng đường sau.
Khi công cuộc Đổi mới bắt đầu (1986), giáo dục được xác định là “quốc sách hàng đầu”. Đại hội VII (1991) đặt nhiệm vụ “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, khẳng định đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Các luật quan trọng ra đời như Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (1991) và Luật Giáo dục (1998), đánh dấu bước trưởng thành về thể chế.
Từ 1986 - 2000, giáo dục vượt qua khủng hoảng, hoàn thành phổ cập tiểu học và xóa mù chữ, bắt đầu phổ cập trung học cơ sở. Hệ thống giáo dục được tái cấu trúc, hình thành các đại học quốc gia, đại học vùng, phát triển mạnh xã hội hóa và trường ngoài công lập.
Giai đoạn 2000 - 2010, giáo dục mở rộng quy mô và hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Luật Giáo dục 2005 tạo cơ sở pháp lý cho xã hội hóa; giáo dục nghề nghiệp được đẩy mạnh với Luật Dạy nghề 2006. Ở bậc đại học, lần đầu tiên kiểm định chất lượng được triển khai.
Đặc biệt, từ 2011 đến nay, ngành bước vào giai đoạn đổi mới căn bản, toàn diện theo Nghị quyết 29-NQ/TW (2013). Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được ban hành, đổi mới theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh; sách giáo khoa do nhiều nhóm tác giả biên soạn, triển khai từ năm học 2020 - 2021. Giáo dục mầm non đạt phổ cập cho trẻ 5 tuổi vào năm 2017, phổ cập tiểu học và trung học cơ sở được duy trì vững chắc, nhiều địa phương đã phổ cập trung học phổ thông.
Đại dịch COVID-19 (2020 - 2021) trở thành phép thử lớn, buộc toàn ngành chuyển sang dạy học trực tuyến với phương châm “tạm dừng đến trường, không dừng học”. Sau dịch, chuyển đổi số trở thành định hướng chiến lược, với mục tiêu xây dựng kho học liệu số, dữ liệu giáo dục và bồi dưỡng kỹ năng số cho giáo viên, học sinh. Quyết định 131/QĐ-TTg năm 2022 khẳng định chiến lược này, mở đường cho hệ sinh thái giáo dục số toàn diện.
Thực hiện lời căn dặn của Bác, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo công tác giáo dục, đào tạo, thực hiện quan điểm “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu” và có những chiến lược lớn để phát triển giáo dục. Vượt qua nhiều thách thức, giáo dục Việt Nam đã khẳng định vị thế bằng những bước tiến đột phá, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.
Mạng lưới trường học từ mầm non đến đại học không ngừng mở rộng, cơ sở vật chất ngày càng khang trang, số lượng trường đạt chuẩn quốc gia và cơ sở ngoài công lập tăng nhanh, tạo nên sự đa dạng về loại hình đào tạo. Việt Nam hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, nhiều địa phương đạt phổ cập trung học phổ thông. Đặc biệt, năm 2017, cả nước công nhận hoàn thành phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi với gần 99% trẻ đến lớp.
Giáo dục Việt Nam khẳng định vị thế với những bước tiến đột phá, nâng cao dân trí và đào tạo nhân lực. Ảnh: Báo Chính phủ
Quy mô đào tạo phát triển mạnh mẽ khi tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi ngày càng cao, tình trạng bỏ học giảm rõ rệt; đến năm 2020, khoảng 70% lao động qua đào tạo nghề có chứng chỉ; số sinh viên trên 1 vạn dân tăng từ 117 (năm 2000) lên hơn 200 (năm 2010) và tiếp tục tăng trong những năm sau.
Ngành giáo dục cũng hoàn tất giai đoạn đầu triển khai chương trình giáo dục phổ thông 2018, thúc đẩy giáo dục nghề nghiệp gắn kết chặt chẽ hơn với nhu cầu thị trường. Ở bậc đại học, quyền tự chủ được mở rộng, kiểm định chất lượng được đẩy mạnh, nhiều chương trình đạt chuẩn khu vực và quốc tế.
Công bằng trong tiếp cận giáo dục được cải thiện đáng kể nhờ chính sách hỗ trợ học sinh nghèo, vùng khó khăn và dân tộc thiểu số, giúp nâng cao tỷ lệ nhập học của nhóm yếu thế. Song song đó, hội nhập quốc tế và chuyển đổi số trở thành động lực mới. Nhiều trường đại học mở rộng liên kết quốc tế, trong khi chuyển đổi số sau đại dịch COVID-19 thúc đẩy sự ra đời của kho học liệu số, phương thức dạy học trực tuyến và quản trị hiện đại, đặt nền móng cho hệ sinh thái giáo dục số tại Việt Nam.
Mục tiêu của giáo dục, đào tạo trong giai đoạn tới được nêu trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ta là "Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước" nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khoẻ, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc và "Chú trọng giáo dục phẩm chất, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", gắn với giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những quan điểm này vẫn in đậm tư tưởng Hồ Chí Minh trong đó.
Nhìn lại chặng đường 2000 - 2025, giáo dục Việt Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ với nhiều thành tựu quan trọng, nổi bật là việc hoàn thành phổ cập và đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo. Bước vào giai đoạn mới, với bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, việc tiếp tục đổi mới trở nên cấp thiết. Vì vậy, chuyển đổi số toàn diện, tăng cường tự chủ và thắt chặt liên kết giữa nhà trường với xã hội chính là những nhiệm vụ chiến lược để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.