Trong hành trình giảm nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, nông nghiệp luôn giữ vai trò then chốt. Nhưng nếu chỉ dựa vào tập quán canh tác truyền thống, nhỏ lẻ, tự cung tự cấp thì bà con khó có thể thoát khỏi vòng luẩn quẩn “được mùa mất giá”. Lạng Sơn, một tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn đã chọn con đường khác đó là đưa công nghệ cao vào đồng ruộng, gắn sản xuất với chuỗi tiêu thụ, tạo sinh kế ổn định cho bà con. PV Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với ông Hoàng Văn Chiều, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lạng Sơn để tìm hiểu rõ hơn định hướng này.
-Những mô hình sản xuất công nghệ cao tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi của Lạng Sơn đã mang lại hiệu quả ra sao trong việc cải thiện đời sống bà con, thưa ông?
Ông Hoàng Văn Chiều: Những năm gần đây, nhiều mô hình nông nghiệp công nghệ cao đã bén rễ tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh. Từ măng tây, nho, táo cho đến các loại rau quả an toàn đều đã khẳng định được giá trị kinh tế. Điều quan trọng nhất là tư duy của người dân đã thay đổi. Theo đó, họ không còn canh tác chỉ để tự cung, tự cấp, mà đã chủ động tính toán thị trường, biết gắn sản xuất với nhu cầu tiêu dùng.
Ông Hoàng Văn Chiều, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lạng Sơn
Nhờ ứng dụng kỹ thuật mới, năng suất và chất lượng nông sản tăng lên rõ rệt. Bà con có thêm hợp đồng bao tiêu với doanh nghiệp và hợp tác xã, hạn chế tình trạng “được mùa mất giá”. Nhiều hộ dân tộc thiểu số nay có thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm, đời sống được cải thiện rõ rệt.
Các mô hình liên kết sản xuất - tiêu thụ còn tạo công ăn việc làm tại chỗ cho thanh niên và phụ nữ. Thay vì rời quê đi làm xa, nhiều người đã quay về tham gia các mô hình công nghệ cao. Điều này không chỉ đem lại thu nhập, mà còn góp phần ổn định xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa ngay trên mảnh đất quê hương.
Có thể nói, những mô hình công nghệ cao không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, mà còn truyền cảm hứng đổi mới tư duy, giúp đồng bào dân tộc thiểu số tự tin hơn trên con đường làm nông nghiệp hàng hóa hiện đại.
Với sự vào cuộc của chính quyền địa phương thì nay, chất lượng, mẫu mã trái na Chi Lăng, Lạng Sơn đã tăng lên rất nhiều. Ảnh: Ngọc Hoa
-Thời gian tới, Sở Nông nghiệp và Môi trường sẽ triển khai những giải pháp gì để phát triển nông nghiệp công nghệ cao, an toàn, hữu cơ, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm?
Ông Hoàng Văn Chiều: Định hướng lâu dài của chúng tôi là phát triển nông nghiệp công nghệ cao gắn chặt với tiêu thụ, lấy hiệu quả thị trường làm thước đo bền vững. Trước hết, tỉnh sẽ mở rộng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, hình thành cánh đồng lớn để thuận lợi áp dụng công nghệ, bảo đảm sản lượng và chất lượng đồng đều.
Song song, ngành sẽ chỉ đạo sử dụng nguồn giống chất lượng tốt, yêu cầu bà con tuân thủ quy trình sản xuất an toàn, hữu cơ. An toàn thực phẩm không chỉ là tiêu chuẩn, mà là “giấy thông hành” để sản phẩm vùng cao tiến vào hệ thống siêu thị, chợ đầu mối, thậm chí hướng tới xuất khẩu.
Một nhiệm vụ khác là đẩy mạnh chế biến sâu để đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị gia tăng. Khi nông sản không chỉ dừng lại ở dạng thô mà được chế biến, đóng gói, xây dựng thương hiệu, giá trị kinh tế sẽ được nhân lên gấp nhiều lần.
Công tác quảng bá, xúc tiến thương mại cũng được chú trọng. Chúng tôi đặt mục tiêu đưa nông sản vùng dân tộc thiểu số lên các sàn thương mại điện tử, hội chợ, triển lãm, kết nối với hệ thống phân phối hiện đại. Đây chính là cách để mở rộng thị trường, giúp bà con yên tâm gắn bó với sản xuất.
-Ông có kiến nghị ra sao để hoàn thành mục tiêu phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, an toàn, hữu cơ, đồng thời tiếp tục cải thiện đời sống bà con vùng đồng bào dân tộc?
Ông Hoàng Văn Chiều: Để nông nghiệp vùng cao thực sự bứt phá, cần sự vào cuộc đồng bộ của nhiều cấp, nhiều ngành. Trước hết, chính quyền cần tăng cường nguồn vốn đầu tư cho hạ tầng nông thôn, nhất là hệ thống giao thông tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Khi có đường sá thông suốt, sản phẩm mới dễ dàng tiếp cận thị trường, tránh cảnh nông sản “bí đầu ra” chỉ vì không vận chuyển kịp.
Thứ hai, cần có các chương trình chuyên sâu về khuyến khích phục hồi và bảo vệ rừng tại đầu nguồn, nơi cung cấp nước sạch cho thôn bản. Bảo vệ rừng cũng chính là bảo vệ sinh kế, bởi nếu mất rừng, mất nguồn nước, thì mọi nỗ lực phát triển nông nghiệp công nghệ cao đều khó bền vững.
Thứ ba, chính sách cần tiếp tục quan tâm đến đào tạo nguồn nhân lực nông thôn. Người dân phải được trang bị kiến thức kỹ thuật, kỹ năng quản trị sản xuất, kỹ năng tiếp cận thị trường. Có như vậy, đồng bào dân tộc thiểu số mới không chỉ là người sản xuất, mà còn trở thành chủ thể làm chủ chuỗi giá trị.
Cuối cùng, chúng tôi mong muốn Nhà nước có thêm cơ chế thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp vùng cao. Doanh nghiệp vừa là “người dẫn đường”, vừa là “đầu tàu” kết nối sản phẩm đến thị trường. Khi có sự tham gia mạnh mẽ của doanh nghiệp, sản phẩm của bà con mới có thương hiệu, mới có chỗ đứng ổn định và lâu dài.
Qua cuộc trao đổi với ông Hoàng Văn Chiều, có thể thấy rõ quyết tâm của ngành Nông nghiệp và Môi trường Lạng Sơn trong việc đồng hành cùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hiệu quả từ những mô hình công nghệ cao, định hướng gắn sản xuất với tiêu thụ và những kiến nghị về đầu tư hạ tầng, bảo vệ môi trường, đào tạo nguồn lực… chính là chìa khóa để mở cánh cửa phát triển bền vững.
Nông nghiệp công nghệ cao không chỉ là giải pháp kinh tế, mà còn là con đường để đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên làm giàu, gắn bó với quê hương, bảo tồn văn hóa và cùng xây dựng vùng cao Lạng Sơn ngày càng khởi sắc.