Mở đường cho "cách mạng xanh" trên đất đỏ bazan
Dưới tán cà phê mướt xanh, trên nền đất đỏ bazan trù phú, Gia Lai đang chứng kiến một cuộc chuyển mình mạnh mẽ, không phải bằng những thay đổi ồn ào, mà bằng sự lặng lẽ bền bỉ của đồng bào dân tộc thiểu số đang từng ngày làm mới tư duy sản xuất nông nghiệp.
Họ, những người từng quen với thói quen dùng thuốc diệt cỏ, phân hóa học, đang học cách quay về với tự nhiên: để cỏ giữ ẩm, dùng vỏ cà phê làm phân bón, thu hoạch đúng độ chín. Tất cả bắt đầu từ những mô hình nhỏ như mảnh vườn 2ha cà phê hữu cơ của chị Nguyễn Thị Thảo ở thôn 4, xã Ia Ko. Vất vả hơn, cần mẫn hơn, nhưng kết quả không phụ công người. Sáu tấn cà phê nhân với lãi gần gấp đôi đã mở ra một chân trời mới cho bà con nơi đây.
Không chỉ chị Thảo, hàng chục hộ nông dân trong xã đang nối bước theo sau. Sự lan tỏa tự nhiên ấy đã tạo nên một vùng cà phê hữu cơ liền vùng, tiền đề cho các hợp tác xã và doanh nghiệp xây dựng chuỗi giá trị vững chắc. Không còn là những người “đơn độc trên ruộng mình”, bà con Gia Lai đang học cách sản xuất trong liên kết, trong cộng đồng, với sự dẫn dắt của các doanh nghiệp, hợp tác xã, những “bà đỡ” vững chãi giữa thời nông nghiệp bấp bênh.
Cà phê hữu cơ cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Ảnh: GLO
Tại xã Đak Đoa, Hợp tác xã Nông nghiệp và Dịch vụ Lam Anh đang cùng bà con Bahnar viết tiếp hành trình xanh bằng quy trình EMI đến từ Nhật Bản. Loại bỏ hoàn toàn hóa chất, ủ phân từ phế phẩm nông nghiệp, giữ lại lớp cỏ giữ ẩm tự nhiên,… những điều tưởng chừng giản đơn lại đang hồi sinh mảnh đất bạc màu, đem lại những mùa thu bội thu mà không cần đánh đổi sức khỏe, môi trường.
Câu chuyện của anh A Xuân ở làng Groi Wêt là một lát cắt điển hình. Anh kể: "Trước đây, đất bạc màu vì dùng nhiều thuốc diệt cỏ. Giờ đây canh tác theo hướng hữu cơ với 1,5ha trồng cà phê cho thu hoạch khoảng 5 tấn, chi phí giảm đến 30%, niềm vui hơn nữa là không còn thuốc độc quanh nhà".
Không chỉ cà phê, cây chanh dây, loài cây từng bị xem là “khó chiều” giờ đang vươn mình khẳng định vai trò cây làm giàu mới. Từ Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp Nghĩa Hòa (xã Chư Păh), mô hình chanh dây đạt chuẩn VietGAP đã thắp sáng giấc mơ đổi đời của nhiều hộ dân đồng bào dân tộc thiểu số. Anh Phan Thế Linh, thành viên của hợp tác xã chỉ cần 1,3ha đã có thể lãi hơn 300 triệu đồng sau ba vụ thu hoạch, với lúc cao điểm giá chanh đạt tới 55.000 đồng/kg.
Không xa, ở xã Ia Lâu, nơi từng chỉ trồng mì và lúa một vụ, chanh dây hữu cơ đã trở thành biểu tượng của sự “thay da đổi thịt”. Gia đình anh Trịnh Phúc từ chỗ bỡ ngỡ khi “làm nông không hóa chất” giờ đây mỗi năm bỏ túi hơn 400 triệu đồng nhờ sự hỗ trợ từ doanh nghiệp về giống và kỹ thuật. Quan trọng hơn, anh bảo: “Làm hữu cơ, tôi không còn lo sợ gì khi hái trái cho con mình ăn”.
Chanh dây hữu cơ đã trở thành biểu tượng của sự “thay da đổi thịt” ở xã Ia Lâu. Ảnh: GLO
Không còn những cánh đồng manh mún, tự phát, Ia Lâu hôm nay đã có vùng quy hoạch 45ha chanh dây hữu cơ, có kiểm soát, có thủy lợi ổn định, có định hướng bài bản từ chính quyền. Một nền nông nghiệp hiện đại không chỉ đến từ máy móc, mà trước hết phải đến từ quy hoạch, tư duy và sự chủ động của cộng đồng.
Tương tự, rau xanh hữu cơ dù chưa rầm rộ cũng đang âm thầm lan rộng ở Tây Gia Lai. 1.200ha rau củ đạt chuẩn VietGAP và hữu cơ là con số biết nói, minh chứng cho tiềm năng chuyển đổi toàn diện cơ cấu cây trồng của địa phương. Từ rau sạch, ngành nông nghiệp tỉnh còn tiến xa hơn với các mô hình “cánh đồng lớn linh hoạt”, truy xuất nguồn gốc, mã số vùng trồng, xúc tiến thương mại từng bước dựng xây thương hiệu nông sản sạch Gia Lai giữa thị trường cạnh tranh khốc liệt.
Gieo mầm “xanh” từ gốc rễ cộng đồng
Đằng sau những vườn cà phê hữu cơ, những mùa chanh dây bội thu, không thể không nhắc đến vai trò đồng hành của các tổ chức chính trị - xã hội tại địa phương những lực đẩy bền bỉ nhưng vững vàng, giúp bà con dân tộc thiểu số không đơn độc trên hành trình chuyển đổi.
Từ chính quyền xã, đến các sở, ngành của tỉnh như: Sở Công Thương, Sở Nông nghiệp và Môi trường, hay các tổ chức đoàn thể như Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ cho đến hệ thống Liên minh Hợp tác xã,… tất cả đã vào cuộc bằng cách riêng của mình: người hỗ trợ kỹ thuật, người kết nối thị trường, người đứng ra đào tạo kỹ năng quản lý và vận hành mô hình sản xuất hiện đại.
Nông nghiệp hữu cơ là chìa khóa giúp đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Gia Lai giảm nghèo, làm giàu bền vững. Ảnh: GLO
Những lớp tập huấn về sản xuất hữu cơ, những khóa đào tạo về chuyển đổi số, quản trị theo chuỗi giá trị, không chỉ làm dày thêm kiến thức mà còn thay đổi cả cách nghĩ, cách làm của cán bộ cơ sở và bà con. Từ chỗ thụ động chờ hỗ trợ, đồng bào nay chủ động đăng ký mô hình, đề xuất dự án, sẵn sàng thử nghiệm phương pháp canh tác mới.
Được biết, ngành Nông nghiệp và Môi trường, ngành Công Thương Gia Lai đang triển khai hàng loạt chương trình có chiều sâu, như xây dựng vùng sản xuất tập trung, phát triển hệ thống truy xuất nguồn gốc, khuyến khích liên kết bốn nhà. Không còn tư duy “mạnh ai nấy làm”, các bên đang tạo nên mạng lưới phối hợp chặt chẽ từ cấp thôn bản cho tới sàn thương mại điện tử.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp với vai trò nhà thu mua, chế biến, phân phối,… cũng không đứng ngoài cuộc. Họ tham gia từ đầu vào cung cấp giống, hỗ trợ kỹ thuật, đến đầu ra bao tiêu sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu. Như Công ty Thông Đỏ nơi đồng hành với các hộ dân trồng chanh dây ở Ia Lâu đang chứng minh rằng, một mối liên kết hài hòa giữa nông dân và doanh nghiệp có thể tạo nên những vụ mùa thắng lợi cho cả hai.
Chuyển đổi sang nông nghiệp hữu cơ là một hành trình không dễ dàng. Nó đòi hỏi kiên trì, đồng thuận, và đặc biệt là sự dẫn dắt, hỗ trợ bài bản từ các tổ chức chính trị - xã hội. Không có lực đỡ ấy, bà con sẽ mãi loay hoay với thửa ruộng nhỏ; nhưng khi được tiếp sức đúng lúc, họ sẽ biết cách đứng vững và đứng cao trên chính mảnh đất quê mình.
Sự phát triển của nông nghiệp hữu cơ ở Gia Lai hôm nay là kết quả của một quá trình hội tụ: tư duy mới từ đồng bào dân tộc thiểu số, cơ chế hỗ trợ từ chính quyền, sự nhập cuộc của doanh nghiệp và vai trò tổ chức từ các đoàn thể. Đó không chỉ là chuyển đổi phương thức sản xuất, mà là sự thức tỉnh của một cộng đồng, khi họ nhận ra làm nông không chỉ để sống, mà còn để sống khỏe, sống bền, và sống có trách nhiệm với đất, với người.
Gia Lai có 837.643ha đất sản xuất nông nghiệp (401.345ha đất trồng cây hàng năm và 436.298ha đất trồng cây lâu năm). Những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp hữu cơ bắt đầu được quan tâm triển khai với quy mô nhỏ. Hiện toàn tỉnh có hơn 100ha đất canh tác hữu cơ được chứng nhận. Tuy diện tích sản xuất nông nghiệp hữu cơ còn hạn chế nhưng chất lượng sản phẩm ngày càng tăng và xuất khẩu sang các thị trường khó tính như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, EU...