Tôi nhận được mấy bài thơ do ông Bùi Đức Khiêm gửi qua zalo cách đây chỉ vài phút (16 giờ 03' hôm 16/4/2025), sau tin nhắn của ông ấy:
"Tôi mới ở quê ra. Gửi chùm bài như ông yêu cầu - Mà bữa trước tặng ông tập thơ rồi mà nhỉ, hay tôi nhầm... "!
Tôi trả lời: "Ông chưa tặng gì hết. Nên tôi đã nói với rất nhiều người: Ông Bùi Đức Khiêm sau khi là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam mà hơn 20 năm nay chưa thấy ra được tập sách nào! Nó tai hại vậy đó!?". Thực ra là tôi chỉ to mồm... "dọa" ông ấy thế thôi.
Ông Tổng Biên tập chắc là tin, liền dịu giọng: "Hôm ông đến nhà, xong đi ăn phở, ngồi uống trà có nói mà. Thôi, hôm nào gặp sẽ tặng. Mà trên Facebook tôi cũng đưa bài giới thiệu, ông không xem."!
(Tôi suýt đọc luôn câu ca dao: "Gặp nhau tay bắt mặt mừng/ Tặng gì thì tặng, xin đừng tặng thơ". Nhưng sợ ông cụt hứng, đành thôi)!
Tôi vốn là thuộc cấp, thế mà ông ấy có "nhớ nhớ, quên quên" vu vơ thế là được rồi. Cảm ơn Lãnh đạo rất nhiều!
Nhà thơ Bùi Đức Khiêm
Như đầu bài viết này "Ông Bùi Đức Khiêm có những bài thơ hay về quê hương Kim Bôi”. Đúng vậy. Khoảng cuối năm 2018, trên Facebook nickname "Bùi Đức Khiêm", có post 2 bài thơ: "Thương nhớ sông Bôi" và bài nữa tôi quên tên. Nội dung bài quên là tả về một phiên chợ Tết đậm chất dân gian thật náo nhiệt ở quê hương Kim Bôi của ông. Nhưng tôi thích bài "Thương nhớ sông Bôi" hơn, nên đã bình luận gửi ông Khiêm qua tin nhắn điện thoại của một sim rác. Vì tôi cố ý giấu tên như trò chơi "trốn bắt", khiến ông ấy không biết chủ nhân tin nhắn là ai, có lẽ thế nên tác giả bài thơ đã hồi âm rất chi nhã nhặn, vui vẻ.
Bài thơ "Thương nhớ sông Bôi" với những câu thơ thật hàm súc mà cụ thể, đáng yêu làm sao:
“Tôi sinh ra ở đây/ cái làng nhỏ tựa lưng vào vách núi/ sông Bôi như chiếc lạt mềm/ xanh trôi trước mặt…/Chiếc lạt mềm buộc chặt/ thương nhớ suốt đời tôi!".
Tôi đã rất thích hình ảnh ví von "chiếc lạt mềm" của dòng sông Bôi. Dành cho nó mấy lời khen "có cánh", chắc cũng làm cho ông ấy sướng rơn... Mới vài ngày trước (cách đến 7 năm sau), tôi mới nói thật tin nhắn đó là của tôi. Rồi đề nghị ông Tổng Biên tập chép gửi cho hai bài thơ tôi đã đọc có lời bình ấy. Thế là hôm nay, trên trang cá nhân Lê Quang Vinh, chúng ta có hẳn chùm thơ gồm 4 bài... "lưng lửng" hay này.
Tôi "ghẹo" chút, vì bài thơ "Gặp lại sông Đà" cũng là sự hay ho chỉ "bình bình", nhưng lại có câu thơ xuất thần, tài hoa, hiếm gặp trên "thi đàn" (thì hiện tại): "tháng năm nước vẹt chân cầu/ bến xưa, người cũ… nát nhàu tương tư". Câu chữ không có gì đặc biệt, nhưng hay vì đặt đúng vị trí để phát huy hết khả năng biểu cảm của từng ngôn từ. (Đó là "nước vẹt chân cầu" và "nát nhàu tương tư"). Tôi đọc đến hai câu thơ này, mà suýt chửi đổng lên như nhân vật Hoàng trong "Đôi Mắt" của Nam Cao: "Tiên sư mày thằng Tào Tháo"!? Chính câu thơ vừa dẫn đã khiến cả bài thơ thăng hoa để "Gặp lại sông Đà" thành bài thơ hay từ A đến Z...
Nghệ thuật tu từ kỳ diệu vậy. Điều này tôi từng viết cho nhà thơ Ngô Minh trong bài phê bình "Vài cảm nhận bước đầu về bài thơ "Đêm bánh tôm Tây Hồ" của Ngô Minh từ tháng 2/2017:
"Những nhà thơ, nhà văn tên tuổi; khi sáng tạo nghệ thuật, họ không ‘bó mình’, ‘khổ luyện’, tìm ‘trăm phương ngàn kế’ để làm nên những điều ta thấy rất ‘cầu kỳ’ như vừa phân tích ở phía trên. Văn thi - nhạc sĩ… làm thơ văn, làm nhạc… như ‘chơi’! Ở đó là sự thăng hoa kỳ diệu (của sự kết hợp) giữa cảm xúc và kỹ năng nghệ thuật. Như vậy, kỹ năng nghệ thuật đã trở thành phẩm chất trong lý trí, tình cảm của các nhà sáng tạo rồi. Họ sáng tạo mà như… ‘vô thức’ trước các thủ pháp nghệ thuật mà vẫn rất… ‘nghệ thuật’ là vậy. Thi sĩ Ngô Mình thuộc VNS loại này".
Câu thơ "tháng năm nước vẹt chân cầu/ bến xưa, người cũ… nát nhàu tương tư" đã khiến Bùi Đức Khiêm thơm lây từ nhà thơ đẳng cấp tài danh Ngô Minh - một cán bộ thuộc cấp, đồng niên của ông Bùi Đức Khiêm nhưng nay đã đi sang thế giới bên kia mất rồi.
Bài thơ "Hòa bình" cũng như "Gặp lại sông Đà". Nếu không có khổ thơ - hình ảnh thơ sau đây, thì có thể chê luôn bài thơ ở mức "xoàng": "Đêm lung linh, huyền diệu/ rằm trăng ngọc ngà tròn như chiếc mâm thau/ người xưa để quên nơi đỉnh núi". Ngay Truyện Kiều cũng vậy, phải có những câu thơ tả cảnh đỉnh cao như: "Long lanh đáy nước in trời/ Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng”; hoặc tả tâm trạng: "Đoạn trường thay, lúc phân kỳ/ Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh"... thì mới trở thành kiệt tác được.
Bài "Sơn nữ gội đầu", cũng có những câu thơ hay đột xuất cả ý lẫn lời: "hương bồ kết quyện hương rừng/ chim muông thảng thốt hót lạc giọng/ khách đường xa tần ngần bước vấp chân".
Những nhà thơ xuất thân từ các dân tộc anh em (không phải người Kinh) luôn có thế mạnh là tư duy cụ thể, thường bất chợt "tóm" được những biểu trưng tinh hoa của dân tộc mình ("rằm trăng ngọc ngà tròn như chiếc mâm thau/ người xưa để quên nơi đỉnh núi").
Đó là sự "vô lý" trong suy tưởng, mà "có lý" (chân thật) trong quan sát đời sống quanh họ. Nên thơ họ đã "gãi đúng chỗ ngứa" thị hiếu người đọc - nhất là người Kinh, ở những câu thơ, hình ảnh thơ hồn nhiên, đẹp đẽ bởi một cách nhìn cách cảm nguyên sơ chỉ xuất hiện trong dân ca, ca dao thuở bình minh của văn hoá con người.
Đây là sở trường của Bùi Đức Khiêm, nhưng cũng là "sở đoản", nếu không cảnh giác sẽ cho ra đời những bài thơ ngô nghê, ít logic; nghèo tiết tấu, nghèo nhịp điệu - thứ tiên quyết của bất kể loại thơ, thể thơ nào cũng cần phải có để nó mới có thể thành thơ được.
Ví dụ, cụ Nguyễn Du đã viết những câu thơ cực kỳ hay khi tả tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Kim Trọng nghe trong lần đầu gặp gỡ: "Trong như tiếng hạc bay qua/ Đục như nước suối mới xa nửa vời/ Tiếng khoan như gió thoảng ngoài/ Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa". Đây thực sự là bản nhạc có nhịp điệu, tiết tấu thay đổi theo trạng huống tình cảm của hai nhân vật Kim - Kiều.
Thơ còn đòi hỏi tính minh triết (tinh hoa trí tuệ và đức hạnh của con người), tính duy lý (chủ nghĩa duy lý là quan điểm nhận thức luận coi "lý trí là nguồn gốc và phép thử của kiến thức" hoặc quan điểm cho rằng "lý trí có ưu thế hơn các cách khác để tiếp thu kiến thức") nữa, để chuyển tải mọi thứ sâu kín mà ngôn ngữ gần như bất lực, nên các cụ xưa từng dạy: "Ý tại ngôn ngoại" (ý ở ngoài lời; chỉ những điều hàm ý, không nói ra trực tiếp, người nghe phải tự suy ra mà hiểu lấy).
Bài thơ "Phất phơ" là một bài thơ ngắn, xúc tích, cũng rất hay: "Gãi lan, từ điệp ngược đèo/ Ngắm lau lách quét mây chiều phất phơ/ Ngẫm mình thơ phú vu vơ/ Non xanh, phố thị ất ơ… đi về!".
Khen qua thế thôi. Lẽ ra phải chê thật nhiều mới có ích cho nhà thơ - ông bạn thân, sếp nhớn thời còn "học mót" làm báo của tôi...