Giao thông - trụ cột của kết nối sản xuất và thị trường
Giai đoạn 2021 - 2030 được xác định là thời điểm bản lề, khi Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững, vươn lên nhóm nước có thu nhập cao. Muốn vậy, theo TS Nguyễn Đức Kiên - Đại biểu Quốc hội khóa XII, XIII, XIV, Nguyên Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng cho rằng, không thể thiếu những đột phá trong đầu tư và phát triển hạ tầng trọng điểm, đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải.
TS Nguyễn Đức Kiên - Đại biểu Quốc hội khóa XII, XIII, XIV, Nguyên Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng chia sẻ quan điểm về phát triển hạ tầng, thúc đẩy phát triển kinh tế tốc độ cao. Ảnh: Minh Ngọc
Cụ thể, TS. Nguyễn Đức Kiên nhấn mạnh, giao thông vận tải không chỉ là hoạt động di chuyển hàng hóa và hành khách, mà còn là dịch vụ logistics, giúp hợp lý hóa giá thành, nâng sức cạnh tranh hàng hóa. Không có giao thông, sản xuất không thể đến được thị trường; ngược lại, thị trường cũng không thể tiếp cận được sản phẩm của doanh nghiệp.
Các nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra 12 yếu tố quyết định sức hút của hạ tầng giao thông: từ phương thức, tốc độ, độ an toàn, chi phí logistics, khả năng kết nối đa phương thức, đến mức độ ưu tiên của từng loại hình sản phẩm. Thực tiễn cho thấy, sự ra đời của vận tải container hay đường sắt tốc độ cao đã thay đổi diện mạo kinh tế toàn cầu.
Dẫn số liệu cụ thể, TS Nguyễn Đức Kiên cho biết, trong hơn một thập kỷ qua, phát triển hạ tầng Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng:
Với đường bộ: Tổng chiều dài đường bộ nước ta hiện nay khoảng 350.000 km với gần 3.000 km đường cao tốc (dự kiến cuối năm 2025) và khoảng 25.000 km đường quốc lộ.
Sự phát triển mạnh mẽ của đường bộ trong giai đoạn vừa qua đã đáp ứng được tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế, giúp giảm thời gian vận tải, thúc đẩy liên kết vùng, song vẫn tồn tại bất cập như chi phí logistics cao, ô nhiễm môi trường, tai nạn gia tăng...
Với đường biển và thủy nội địa: Thời gian qua đã góp phần đảm bảo vận chuyển phần lớn hàng hóa xuất nhập khẩu; vận tải hành khách chiếm tỷ trọng rất nhỏ, chủ yếu là liên tỉnh hoặc phục vụ khách du lịch. Tuy nhiên, lợi thế vận tải biển pha sông chưa khai thác triệt để, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long – nơi chi phí vận tải vẫn cao do thiếu đầu tư đồng bộ.
Với hàng không. Từ 2011 đến nay, hàng không là lĩnh vực vận tải được quan tâm đầu tư, nâng cấp. Song cơ sở hạ tầng vẫn có giới hạn, chưa theo kịp tốc độ tăng trưởng nhu cầu.
Với đường sắt, có thể xem là tụt hậu nghiêm trọng, nhiều năm không được đầu tư xây mới, tốc độ thấp, an toàn hạn chế. Thị phần vận tải hàng hóa và hành khách ngày càng giảm.
Sự phát triển mạnh mẽ của đường bộ trong giai đoạn vừa qua đã đáp ứng được tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế. Ảnh: Bình Giang
Trên cơ sở phân tích thực trạng của kết cấu hạ tầng giao thông Việt Nam thời gian vừa qua Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã quyết định đầu tư hệ thống đường sắt tốc độ cao để góp phần cải thiện kết cấu hạ tầng giao thông, giảm chi phí logistics, tang cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.
Riêng đối với tuyến đường sắt Bắc Nam, việc quyết định đầu tư với tổng mức đầu tư gần 70 tỷ USD, trong đó bao gồm các loại chi phí giải phóng mặt bằng, chi phí xây dựng, chi phí quản lý hoàn toàn có thể do các doanh nghiệp Việt Nam đảm nhận.
Theo tính toán, tuyến đường sắt Bắc - Nam có tổng mức đầu tư gần 70 tỷ USD, thời gian thi công khoảng 10 năm. Chỉ riêng phần nguyên vật liệu đã có thể tiêu thụ khoảng 132 triệu tấn thép, 41 triệu m³ đá, 140 triệu tấn xi măng và 135 triệu m³ cát. Đây không chỉ là con số khổng lồ về nhu cầu nguyên vật liệu, mà còn là cơ hội để ổn định ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, tạo thêm 250.000 việc làm mới cho nền kinh tế.
“Như phương án Chính phủ đã trình Quốc hội và được các doanh nghiệp trong nước hưởng ứng với thời gian thi công toàn tuyến trong thời gian khoảng 10 năm thì đến hết năm 2035 Việt Nam đạt được 3 thành công lớn:
Một là, khơi thông nguồn vốn xã hội cho đầu tư công. Vốn ngân sách nhà nước đầu tư có tính chất vốn mồi cho các lĩnh vực mà các doanh nghiệp Việt Nam chưa có khả năng tham gia, phần vốn xây dựng kết cấu hạ tầng sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội thông qua các hình thức PPP.
Hai là, xây dựng được một ngành công nghiệp đường sắt Việt Nam bao gồm cả các ngành công nghiệp cơ bản như sản xuất thép ray, động cơ điện cho đầu máy, hệ thống tự động hóa điều khiển chạy tàu.
Ba là, ổn định ngành công nghiệp vật liệu xây dựng và tạo thêm được việc làm mới cho nền kinh tế” - TS Nguyễn Đức Kiên phân tích và nhìn nhận.
Thực tế cho thấy, Việt Nam hoàn toàn có khả năng triển khai những dự án hạ tầng lớn trong thời gian ngắn nếu có quyết tâm chính trị và sự chỉ đạo sát sao. Đơn cử như dự án đường dây 500kV Quảng Trạch - Phố Nối dài hơn 500 km, vốn gần 3.000 tỷ đồng, chỉ mất 7 tháng thi công, trong khi trước kia thường cần tới 4 năm. Một ví dụ khác là Cầu Phong Châu (Phú Thọ) hoàn thành sau 10 tháng nhờ sự chỉ đạo quyết liệt và cơ chế linh hoạt.
Những minh chứng này cho thấy, điểm nghẽn lớn nhất không nằm ở năng lực kỹ thuật, mà ở thể chế, thủ tục và tư duy đầu tư công.
Cần đột phá tư duy đầu tư công
Cũng theo TS Nguyễn Đức Kiên, muốn đạt tăng trưởng cao 8,5% trong năm 2025 tạo đà cho tăng trưởng 2 con số ở những năm tiếp theo, Việt Nam phải đổi mới tư duy về đầu tư hạ tầng.
TS Nguyễn Đức Kiên cho rằng, cần chú trọng đến hiệu quả, nuôi dưỡng và hình thành các doanh nghiệp Việt có đủ khả năng vươn tầm ra khu vực và thế giới, tránh tình trạng vì sợ trách nhiệm dùng vỏ bọc chất lượng công trình và bình đẳng trong nền kinh tế thị trường để áp dụng những thủ tục cũ làm hạn chế sự tăng trưởng của kinh tế, không hình thành được các doanh nghiệp Việt có tầm vóc khu vực và thế giới.
Đặc biệt, trong năm 2025, cần tiến hành chỉ định thầu các gói thầu hạ tầng đường sắt, đàm phán chuyển giao công nghệ sản xuất đầu máy, toa xe, tín hiệu, để sớm triển khai dự án. Đây không chỉ là hạ tầng giao thông, mà còn là “cú hích” hình thành doanh nghiệp Việt đủ tầm vươn ra khu vực và thế giới.
TS Nguyễn Đức Kiên nhấn mạnh, hạ tầng trọng điểm, đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải, chính là động lực then chốt để Việt Nam bước vào kỷ nguyên tăng trưởng tốc độ cao. Đầu tư cho hạ tầng không chỉ tạo ra giá trị kinh tế trực tiếp, mà còn lan tỏa việc làm, ổn định ngành công nghiệp phụ trợ, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia.
Đã đến lúc chúng ta phải hành động quyết liệt hơn, đổi mới tư duy mạnh mẽ hơn, để hạ tầng thực sự trở thành “đòn bẩy” cho tăng trưởng, chứ không còn là điểm nghẽn. Con đường tới Việt Nam 2045 - quốc gia phát triển, thu nhập cao sẽ được rút ngắn, nếu biết tận dụng và triển khai hiệu quả những dự án hạ tầng trọng điểm ngay từ hôm nay.
Theo tính toán, tuyến đường sắt Bắc - Nam có tổng mức đầu tư gần 70 tỷ USD, thời gian thi công khoảng 10 năm. Chỉ riêng phần nguyên vật liệu đã có thể tiêu thụ khoảng 132 triệu tấn thép, 41 triệu m³ đá, 140 triệu tấn xi măng và 135 triệu m³ cát.
Đây không chỉ là con số khổng lồ về nhu cầu nguyên vật liệu, mà còn là cơ hội để ổn định ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, tạo thêm 250.000 việc làm mới cho nền kinh tế.