Đóng

Phát triển sản xuất gắn với du lịch nông nghiệp: Sinh kế mới trên đất dốc

Mô hình phát triển sản xuất gắn với du lịch nông nghiệp đang mở ra hướng sinh kế mới cho đồng bào, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái và nâng cao giá trị sản phẩm vùng dân tộc.

Hiệu quả cao từ mô hình nông lâm kết hợp du lịch

Trong hai ngày 25 - 26/8, tại Sơn La, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đã tổ chức Diễn đàn Khuyến nông, Nông nghiệp với chủ đề “Phát triển mô hình nông lâm kết hợp gắn với du lịch nông nghiệp và bảo vệ môi trường sinh thái”. Đây được coi là cuộc trao đổi quan trọng, nhằm tìm giải pháp bền vững cho nông dân vùng cao trong bối cảnh biến đổi khí hậu và thị trường ngày càng khắt khe.

Aratay Coffee đã và đang đẩy mạnh phát triển sản xuất và du lịch (Ảnh: Aratay Coffee)

Bà Cầm Thị Phong, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Sơn La chia sẻ: Với diện tích tự nhiên hơn 1,4 triệu ha, trong đó trên 85% là đồi núi dốc, Sơn La đã xác định phát triển mô hình nông lâm kết hợp là hướng đi chiến lược. Các mô hình trồng cây ăn quả kết hợp chăn nuôi dưới tán rừng, cà phê, chè xen mắc ca hay trám đen - cà phê - cây dược liệu đã và đang góp phần tăng thu nhập, cải thiện sinh kế cho bà con đồng bào dân tộc thiểu số, bảo vệ rừng và đất dốc. Đến hết năm 2023, diện tích áp dụng các mô hình sản xuất nông lâm kết hợp ở Sơn La đạt khoảng 15.000 ha, nhiều hộ dân thu nhập từ 200 - 400 triệu đồng/ha/năm.

Đặc biệt, việc gắn kết các vùng cây ăn quả, chè, cà phê cùng cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ của Mộc Châu, Mai Sơn, Tà Xùa… đang mở ra hướng phát triển mới, đóng góp cho mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững và thực hiện cam kết giảm phát thải của Việt Nam.

Thông tin tại diễn đàn cho thấy, nông lâm kết hợp là mô hình sản xuất trên cùng một diện tích đất, người dân vừa trồng cây ăn quả, cây lâm nghiệp, vừa phát triển chăn nuôi hoặc trồng cây dược liệu dưới tán rừng. Mô hình này mang lại nhiều lợi ích: hạn chế xói mòn đất dốc, tăng độ che phủ rừng, giữ nước, hấp thụ carbon và bảo vệ đa dạng sinh học. Theo các nghiên cứu, mỗi hecta đất rừng kết hợp có thể hấp thụ từ 7-10 tấn CO2/năm, góp phần quan trọng vào mục tiêu phát triển kinh tế xanh và cam kết Net Zero 2050 của Việt Nam.

Thực tiễn ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Sơn La, Điện Biên, Lào Cai đã chứng minh hiệu quả rõ rệt. Hàng chục nghìn hecta cây trồng đã được quy hoạch thành các vùng sản xuất nông - lâm kết hợp, trong đó nhiều mô hình gắn với hợp tác xã và doanh nghiệp, sản phẩm được chứng nhận OCOP, truy xuất nguồn gốc minh bạch, từ đó gia tăng giá trị trên thị trường. Người dân không chỉ có thêm nguồn thu ổn định mà còn giữ gìn được rừng và môi trường sống lâu dài.

Một điểm mới trong mô hình được thảo luận tại diễn đàn là sự kết hợp giữa sản xuất nông - lâm và phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng. Đây được xem là chìa khóa nâng tầm sản phẩm địa phương, biến hàng hóa thành trải nghiệm văn hóa.

Tại Sơn La, hợp tác xã Aratay Coffee là ví dụ điển hình. Mô hình cà phê xen mắc ca, cây ăn quả, cây dược liệu dưới tán rừng không chỉ cải tạo đất, nâng cao năng suất, mà còn tạo nên cảnh quan sinh thái phục vụ du lịch trải nghiệm. Bà Cầm Thị Mòn, Giám đốc HTX cho biết, khách du lịch đến đây không chỉ thưởng thức cà phê sạch đạt OCOP 4 sao mà còn được tận mắt chứng kiến cách người dân canh tác, nghe những câu chuyện về bản làng, hòa mình vào đời sống cộng đồng. Nhờ đó, thu nhập của nhiều hộ tăng lên 200-250 triệu đồng/năm, đồng thời du lịch cộng đồng phát triển, bản sắc văn hóa dân tộc được bảo tồn.

Mô hình này cho thấy sản phẩm nông nghiệp miền núi sẽ khó có sức cạnh tranh nếu chỉ dừng lại ở “nông sản thô”. Khi kết hợp với du lịch, sản phẩm trở thành “đại sứ văn hóa” đưa câu chuyện bản địa đến với du khách, giúp người tiêu dùng nhớ và gắn bó hơn. Đây là con đường vừa nâng cao giá trị kinh tế, vừa góp phần giữ gìn môi trường và bản sắc văn hóa vùng cao. 

Thách thức và hướng đi để nhân rộng mô hình

Dù được đánh giá là hướng đi tất yếu, mô hình nông - lâm kết hợp gắn với du lịch vẫn còn nhiều khó khăn. Vốn đầu tư ban đầu cho hệ thống canh tác, cải tạo đất, xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch thường khá lớn. Lợi ích của mô hình không thể hiện ngay trong ngắn hạn, đòi hỏi người dân có sự kiên nhẫn và niềm tin. Ngoài ra, liên kết tiêu thụ sản phẩm còn yếu, nhiều sản phẩm địa phương chưa có thương hiệu đủ mạnh để vươn xa ra thị trường.

Đồi chè Mộc Châu là một điểm du lịch nông nghiệp nổi tiếng 

Từ diễn đàn, các chuyên gia đã đưa ra nhiều giải pháp như Nhà nước cần có chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ chứng nhận sản phẩm bền vững, đồng thời đầu tư hạ tầng du lịch như homestay, điểm trải nghiệm.

Bên cạnh đó, liên kết “4 nhà” – Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân phải được thúc đẩy mạnh mẽ để hình thành chuỗi giá trị khép kín, từ sản xuất đến tiêu thụ. Cần đầu tư nghiên cứu khoa học, dữ liệu về hấp thụ carbon, xây dựng cơ sở dữ liệu số cho các mô hình nhằm chứng minh rõ giá trị môi trường và kinh tế.

Công tác đào tạo, tập huấn, chuyển giao kỹ thuật cho hợp tác xã, hộ dân cần được đẩy mạnh, giúp người nông dân tự tin nhân rộng mô hình. Đặc biệt, truyền thông, quảng bá sản phẩm gắn với câu chuyện văn hóa là “chìa khóa vàng” để sản phẩm miền núi không chỉ được biết đến như hàng hóa, mà còn như một trải nghiệm giàu giá trị nhân văn.

Có thể nói, mô hình nông - lâm kết hợp gắn với du lịch nông nghiệp và bảo vệ sinh thái chính là “cầu nối” để miền núi bước vào nền kinh tế xanh. Đây không chỉ là giải pháp sinh kế, mà còn là cách để đồng bào dân tộc thiểu số khẳng định bản sắc, gìn giữ tài nguyên rừng và tạo ra giá trị mới từ thiên nhiên.

Từ những bước đi đầu tiên ở Sơn La, nếu được nhân rộng, mô hình phát triển nông lâm nghiệp gắn với du lịch sẽ trở thành hướng đi chiến lược cho nhiều địa phương miền núi, nơi sản phẩm của bà con không chỉ dừng lại ở mức hàng hóa, mà còn trở thành thương hiệu, trở thành trải nghiệm và trở thành niềm tự hào.

Bảo Ngọc