Những kết quả bước đầu
Sau hơn 2 năm thực hiện Quy hoạch điện VIII và một năm thực hiện Quy hoạch VIII điều chỉnh, hệ thống điện Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng nhằm đảm bảo cung ứng điện cho phát triển kinh tế - xã hội. Theo báo cáo của Bộ Công Thương, trong 8 tháng năm 2025, công suất tiêu thụ điện của cả nước đạt 54.370 MW (tổng công suất nguồn điện khoảng 87.848 MW), sản lượng điện thương phẩm tăng 11,1% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung công tác đảm bảo cấp điện được đảm bảo, kể cả đợt cao điểm nắng nóng và dịp lễ, Tết.
Cần thêm giải pháp hoá giải thách thức nguồn điện. (Ảnh minh hoạ)
Đặc biệt, nhiều dự án nguồn điện tái tạo đã phát huy vai trò trong việc bổ sung nguồn cung, giảm áp lực cho thủy điện và nhiệt điện than. Điện mặt trời mái nhà, sau một thời gian chững lại, đang được rà soát, điều chỉnh cơ chế hỗ trợ để khai thác hiệu quả hơn. Điện gió trong đất liền đã đóng góp vào hệ thống, dù công suất chưa đạt mức kỳ vọng theo quy hoạch.
Bên cạnh đó, nhiều nguồn điện cũng được khởi công, hoàn thành góp phần bổ sung thêm cho hệ thống điện quốc gia.
Ngoài ra, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và các địa phương đã phối hợp triển khai nhập khẩu điện từ Lào và Trung Quốc. Một số dự án đường dây đấu nối 220 kV và 500 kV đã hoàn thành, mở ra khả năng đa dạng hóa nguồn cung. Đây là tín hiệu tích cực trong bối cảnh nhu cầu điện tại miền Bắc liên tục tăng cao, đặc biệt trong mùa nắng nóng.
Có thể nói, đến thời điểm này, Quy hoạch điện VIII và Quy hoạch VIII điều chỉnh đã góp phần tạo ra khung khổ định hướng phát triển ngành điện dài hạn, huy động được nhiều nguồn lực xã hội, đồng thời đảm bảo vận hành hệ thống điện ổn định trong giai đoạn tăng trưởng mạnh của nền kinh tế.
Ngay sau khi Quyết định 768 được ban hành, Bộ Công Thương đã chủ trì xây dựng trình Chính phủ hàng loạt văn bản để tổ chức triển khai. Có thể kể đến như Kế hoạch thực hiện Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, Nghị định số 56/2025/NĐ-CP về hướng dẫn quy hoạch điện, phương án phát triển mạng lưới cấp điện, đầu tư xây dựng dự án điện lực và đấu thầu, lựa chọn nhà đầu tư (có bổ sung, chỉnh sửa tại Nghị định số 100/2025/NĐ-CP); Nghị định số 57/2025/NĐ-CP về cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện năng lượng tái tạo (NLTT) và khách hàng lớn; Nghị định số 58/2025/NĐ-CP về quy định phát triển điện NLTT, năng lượng mới.
Ngoài ra, Bộ Công Thương đã kịp thời phê duyệt giá điện cho các loại hình nguồn điện năm 2025, điển hình như Quyết định số 1313/QĐ-BCT về khung giá điện tối đa của điện LNG là 3.327,42 đ/kW; Quyết định số 1198/QĐ-BCT về mức giá tối đa của khung giá điện cho thủy điện tích năng là 3457,02 đ/kWh; Quyết định số 1824/QĐ-BCT ngày 26/6/2025 của Bộ Công Thương về khung giá điện gió ngoài khơi; Quyết định số 988/QĐ-BCT về mức giá tối đa của điện mặt trời với loại hình không có pin lưu trữ và có pin lưu trữ; Quyết định số 1508/QĐ-BCT về mức giá tối đa điện gió trên bờ-gần bờ….
Tuy đạt được kết quả bước đầu, song quá trình thực hiện đã phát sinh nhiều vướng mắc cả phía chủ quan lẫn khách quan.
Theo Quyết định số 768/QĐ-TTg ngày 15/4/2025 về việc Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII của Thủ tướng Chính phủ nhằm cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 10%/năm trong giai đoạn 2026-2030 và khoảng 7,5%/năm trong giai đoạn 2031-2050.
TT |
Nguồn điện |
Năm 2030, MW |
Tỷ trọng, % |
1 |
Điện than |
31.055 |
13,1-16,9 |
2 |
Điện khí trong nước |
10.861-14.930 |
5,9-6,3 |
3 |
Nhiệt điện LNG |
22.524 |
19,5-12,3 |
4 |
Thủy điện |
33.294-34.667 |
14,7-18,2 |
5 |
Điện gió trên bờ và gần bờ |
26.066-38.029 |
14,2-16,1 |
6 |
Điện gió ngoài khơi |
6.000 |
- |
7 |
Điện mặt trời các loại |
46.459-73.416 |
25,3-31,1 |
8 |
Điện sinh khối |
1.523-2.699 |
- |
9 |
Điện từ rác |
1.44.-2.137 |
- |
10 |
Điện địa nhiệt và năng lượng mới khác |
45 |
- |
11 |
Nguồn lưu trữ |
10.000-16.300 |
5,5-6,9 |
12 |
Nguồn điện linh hoạt |
2.000-3.000 |
1,1-1,3 |
13 |
Thủy điện tích năng |
2.400-6.000 |
- |
14 |
Nhập khẩu điện |
9.360-12.100 |
4,0-5,1 |
15 |
Điện hạt nhân (giai đoạn 2030-2035) |
4.000-6.400 |
- |
Cơ cấu nguồn điện năm 2030
Một trong những điểm đáng chú ý về nguồn vốn thực hiện phát triển nguồn điện cho giai đoạn 2025-2030 khoảng 118,2 tỷ USD, tương đương mỗi năm cần vốn đầu tư cho nguồn điện khoảng 21,5 tỷ USD.
Thách thức và giải pháp
Theo ý kiến từ các doanh nghiệp, chuyên gia, mặc dù nguồn vốn gặp khó khăn song vấn đề tồn tại vướng mắc lại đang đến từ cơ chế chính sách. Đơn cử như Luật Quy hoạch thiếu linh hoạt, chưa có cơ chế điều chỉnh kịp thời; Luật Đầu tư và Luật Đấu thầu chưa tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho lựa chọn nhà đầu tư nhanh chóng; Luật Đất đai sửa đổi chậm ban hành, gây ách tắc trong bố trí quỹ đất cho các dự án năng lượng.
Bên cạnh đó nhiều loại hình nguồn điện mới như điện gió ngoài khơi, điện hạt nhân, Việt Nam chưa có kinh nghiệm nên còn lúng túng; cơ sở pháp lý vẫn chưa rõ ràng dẫn đến các dự án gặp khó khăn, tổ chức tín dụng quốc tế và nhà đầu tư e ngại.
Theo quan sát, hiện có 3 loại hình nguồn điện quan trọng đang gặp khó khăn gồm Điện khí LNG, điện hạt nhân, điện gió ngoài khơi, điện mặt trời (nhóm dự án tập trung, và điện mặt trời mái nhà trong khu công nghiệp).
Trong đó, nhiệt điện khí LNG đang gặp khó bởi cơ chế giá và hợp đồng. Hiện chưa có quy định về giá khí trộn giữa khí nội địa và LNG nhập khẩu, cũng như cơ chế hợp đồng sản lượng điện tối thiểu dài hạn. Điều này khiến nhà đầu tư và EVN gặp khó trong đàm phán, huy động vốn, và tính toán phương án vận hành.
Đối với điện gió ngoài khơi, điểm nghẽn nằm ở chỗ về quyền lợi cho doanh nghiệp khảo sát. Bên cạnh đó là các quy định liên quan đến quy hoạch không gian biển và quy mô khảo sát…
Đối với các dự án điện mặt trời tập trung, nhiều địa phương phải thực hiện khảo sát, cập nhật các quy hoạch phân khu, quy hoạch chung, quy hoạch tỉnh trước khi tổ chức thực hiện. Nhiều địa phương còn chậm phê duyệt chủ trương đầu tư dự án hoặc chưa quyết liệt, hoặc kéo dài thời gian đấu thầu…Trong khi đó điện mặt trời mái nhà tại các khu cụm công nghiệp lại vướng mắc liên quan đến thoả thuận giữa chủ đầu tư và đơn vị sở hữu lưới điện trong khu, cụm công nghiệp…(lợi ích và kỹ thuật..).
Tại Hội nghị toàn quốc về rà soát tình hình triển khai Quyết định số 768/QĐ-TTg ngày 15/4/2025 phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII và giải pháp bảo đảm cung cấp điện trong thời gian tới, Bộ trưởng Bộ Công Thương cho biết, việc triển khai Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, nhất là các dự án trọng điểm, còn rất hạn chế. Nguyên nhân có phần khách quan do giai đoạn vừa qua cả nước tập trung sắp xếp đơn vị hành chính, đồng thời sửa đổi nhiều luật, nghị định liên quan, khiến quá trình triển khai gặp khó. Bên cạnh đó còn có nguyên nhân chủ quan như tính chủ động và quyết liệt của các cấp, ngành, cơ quan.
Các dự án điện gió ngoài khơi, điện hạt nhân thuộc thẩm quyền Chính phủ, còn lại là trách nhiệm của địa phương. Nhưng đến nay, nhiều dự án chưa triển khai hoặc mới đạt tỷ lệ rất thấp. Thẩm quyền và trách nhiệm thực hiện Quy hoạch điện VIII đã được phân cấp cụ thể. Các bộ, ngành chủ yếu liên quan đến cơ chế, chính sách, còn quyết định quy hoạch, lựa chọn và chấp thuận nhà đầu tư chủ yếu thuộc về các tỉnh, trừ hai loại hình điện gió ngoài khơi và điện hạt nhân.
Để tháo gỡ khó khăn, Bộ Công Thương và EVN đã đưa ra nhiều kiến nghị quan trọng, trong đó cần hoàn thiện cơ chế chính sách. Trước mắt, cần sớm sửa đổi, bổ sung Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Đấu thầu theo hướng thống nhất, đồng bộ, giảm thục tục hành chính. Trong thời gian chưa kịp hoàn thiện, Chính phủ có thể ban hành nghị quyết chuyên đề để xử lý các vướng mắc cấp bách, tạo hành lang pháp lý tạm thời cho các dự án trọng điểm.
Đối với các dự án điện khí LNG, cần xây dựng cơ chế chia sẻ rủi ro rõ ràng, theo hướng tăng sản lượng điên hợp đồng thối thiểu dài hạn phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đảm bảo khả năng thu xếp vốn vay của các dự án. Xem xét cơ chế phù hợp để các nhà đầu tư có thể thu xếp nguồn ngoại tệ mua LNG từ nước ngoài theo các hợp đồng mua LNG dài hạn nhằm ổn định nguồn cung và giá LNG.
Với điện gió ngoài khơi, ngoài việc hoàn thiện khung pháp lý giải quyết những khó khăn nêu trên cần tăng quy mô công suất giai đoạn 2031-2035, mở rộng đối tượng tham gia đầu tư; đối với tổ chức lựa chọn nhà đầu tư có thể phân cấp, phân quyền cho địa phương, cùng với đó là hoàn thiện cơ chế đấu nối lưới và cơ chế giá điện cạnh tranh…
Có thể khẳng định, Quy hoạch điện VIII điều chỉnh cùng với Nghị quyết số 70-NQ/TW ngày 20/8/2025 về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã mở ra một giai đoạn mới cho ngành năng lượng Việt Nam. Tuy nhiên để thực hiện những mục tiêu đề ra, rất cần sự chung tay của các bộ ngành, địa phương nhằm tháo gỡ khó khăn vướng mắc, hoàn thiện khung khổ pháp lý để ngành điện vượt qua thách thức, bảo đảm cung cấp đủ điện cho phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững, xanh và hiện đại.