Đóng

Sửa Luật Sở hữu trí tuệ, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế

Việc sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ sẽ góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong tình hình mới.

Sửa luật để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế

Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành lần đầu tiên vào năm 2005 và được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2009, 2019 và 2022. Về cơ bản, các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ hiện hành đã tạo hành lang pháp lý tương đối đầy đủ đối với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Tuy nhiên, Luật Sở hữu trí tuệ còn có một số bất cập như chưa có những quy định cụ thể về các biện pháp để thúc đẩy và tạo thuận lợi cho việc khai thác thương mại quyền sở hữu trí tuệ trong khi năng lực khai thác thương mại quyền sở hữu trí tuệ của các tổ chức, cá nhân Việt Nam còn hạn chế, chưa có quy định rõ ràng về thương mại hóa sáng chế, cấp phép, đánh giá, định giá, thế chấp bằng quyền sở hữu trí tuệ; chưa thúc đẩy được thị trường về quyền sở hữu trí tuệ;

Các quy định về thủ tục cấp quyền sở hữu trí tuệ còn phức tạp, thời gian thực hiện kéo dài, chưa đáp ứng được yêu cầu về đơn giản hóa, cắt giảm thời gian thực hiện thủ tục hành chính về sở hữu trí tuệ. Quản lý sáng chế mật được đưa lên mức luật với các quy định nghiêm ngặt nhưng chưa có quy trình phê duyệt, gây ùn tắc trong đăng ký quốc tế.

Quy định về bảo vệ quyền còn chưa đủ mạnh, thiếu tính răn đe, nguồn lực hỗ trợ công tác thực thi, đặc biệt là công tác giám định còn hạn chế (việc giám định sở hữu trí tuệ chậm và thiếu minh bạch); đội ngũ nhân lực trong cơ quan thực thi sở hữu trí tuệ thiếu chuyên môn kỹ thuật; thiếu cơ chế hỗ trợ tích cực doanh nghiệp trong việc thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

Thêm vào đó, hoạt động sở hữu trí tuệ chưa đảm bảo các yêu cầu đặt ra của luật pháp về cạnh tranh, thiếu cơ chế kiểm soát lạm dụng độc quyền và chưa có các quy định chống độc quyền trong sở hữu trí tuệ, trong đó, quyền độc quyền về sở hữu trí tuệ được trao rộng rãi, dẫn đến lạm quyền trong sở hữu trí tuệ. Phạm vi bảo hộ sở hữu công nghiệp còn hẹp, chưa có các quy định để xử lý các vấn đề phát sinh từ xu hướng mới trong phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (ví dụ vấn đề liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI), tài sản số, thiết kế giao diện người dùng..

Từ các lý do trên, việc sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ là cần thiết để tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý để tạo hành lang vững chắc và thuận lợi cho hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt đối với một số lĩnh vực Việt Nam có tiềm năng, lợi thế; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển thị trường sở hữu trí tuệ đáp ứng nhu cầu khai thác thương mại quyền sở hữu trí tuệ, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, uy tín của sản phẩm quốc gia và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Đồng thời, tạo động lực để phát huy tối đa tiềm năng, trí tuệ Việt Nam, tạo môi trường thuận lợi cho việc nhanh chóng tiếp thu, hấp thụ, làm chủ và ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của thế giới; phục vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong tình hình mới.

Việc sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ là cần thiết để nâng cao năng suất, chất lượng, uy tín của sản phẩm quốc gia và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Ảnh minh hoạ

Đáp ứng xu thế quốc tế

Cũng theo Bộ Khoa học và Công nghệ, việc sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ còn đáp ứng các xu thế về sở hữu trí tuệ đang diễn ra trên thế giới, có ảnh hưởng tới Việt Nam.

Cụ thể, sở hữu trí tuệ đang trở thành công cụ chiến lược để bảo vệ và chiếm lĩnh công nghệ đồng thời là công cụ cạnh tranh công nghệ. Nhiều quốc gia đã coi sở hữu trí tuệ là công cụ chiến lược để cạnh tranh quốc tế về công nghệ và các doanh nghiệp toàn cầu đang đẩy nhanh việc đăng ký sáng chế như một vũ khí mềm để kiểm soát thị trường. Cạnh tranh công nghệ hiện nay đang diễn ra chủ yếu qua tranh chấp sở hữu trí tuệ xuyên biên giới với nhiều vụ kiện diễn ra tại tòa án quốc tế. Các nước phát triển trên thế giới có tài sản phi vật chất chiếm trên 80%, còn lại dưới 20% là tài sản vật chất; nhiều nước coi trọng việc mua bán tài sản trí tuệ hơn là các tài sản vật chất truyền thống.

Hiện nay, đang có xu hướng gia tăng mạnh mẽ các loại hình tài sản trí tuệ phi truyền thống, bảo hộ tài sản trí tuệ phi truyền thống và mở rộng khái niệm sở hữu trí tuệ, cơ chế bảo hộ mới. Ví dụ như dữ liệu, thuật toán, phần mềm AI, mô hình kinh doanh, thiết kế giao diện người dùng...đang trở thành tài sản số có giá trị lớn, nhưng cơ chế bảo hộ chưa rõ ràng.

Sự phát triển của công nghệ số, môi trường số và công nghệ mới đặt ra thách thức mới về bảo hộ sở hữu trí tuệ, đặc biệt là đối với việc bảo hộ nội dung số, AI, blockchain, dữ liệu; xung đột giữa quyền sở hữu trí tuệ và quyền riêng tư, quyền truy cập mở (open access) ngày càng gay gắt. AI nội sinh, metaverse, blockchain, dữ liệu lớn đặt ra vấn đề xác định tác giả, chủ sở hữu dữ liệu và vấn đề bảo hộ các sản phẩm này.

Trong những năm gần đây, nhiều quốc gia đã phát triển mạnh mô hình khai thác tài sản trí tuệ (IP monetization), biến quyền sở hữu trí tuệ thành tiền đồng thời bổ sung các quy định về định giá, chuyển nhượng, cấp phép. Các mô hình mua bán, chuyển nhượng, cấp phép, gộp bằng sáng chế (patent pooling), sàn giao dịch tài sản trí tuệ, định giá quyền sở hữu trí tuệ, tài chính hóa sở hữu trí tuệ (IP-backed loan, cho vay dựa trên quyền sở hữu trí tuệ, biến quyền sở hữu trí tuệ thành tài sản đảm bảo) ngày càng phát triển, từ đó đặt ra yêu cầu nghiên cứu chuyển quyền sở hữu trí tuệ thành tài sản có thể giao dịch như bất động sản hoặc chứng khoán.

Sở hữu trí tuệ gắn chặt với đổi mới sáng tạo, nghiên cứu phát triển và khởi nghiệp bao gồm các cơ chế chia sẻ sở hữu, hỗ trợ khai thác thương mại. Sáng chế và sở hữu trí tuệ không chỉ để bảo vệ quyền mà phải gắn với khai thác giá trị, phục vụ thương mại hóa và phát triển doanh nghiệp. Các quốc gia đều liên kết luật sở hữu trí tuệ với các chính sách hỗ trợ nghiên cứu phát triển, đổi mới sáng tạo, thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp từ trường, viện.

Hợp tác quốc tế và cạnh tranh về quyền sở hữu trí tuệ diễn ra sớm và mang tính toàn cầu, thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa quyền sở hữu trí tuệ, tăng cường liên thông quốc tế và hỗ trợ đăng ký trên phạm vi toàn cầu. Các doanh nghiệp đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không chỉ trong nước mà ngay từ đầu đã nộp đơn theo Hiệp ước Hợp tác về bằng sáng chế, Thỏa ước và Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu, Thỏa ước La Hay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp...

Xu hướng đầu tư vào tài sản vô hình, tài sản trí tuệ đang tăng nhanh hơn đầu tư vào tài sản hữu hình. Theo thống kê của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, kể từ năm 2008, đầu tư vào tài sản vô hình đã vượt đầu tư vào tài sản hữu hình. Tài sản vô hình chiếm hơn 90% giá trị của các công ty trong chỉ số chứng khoán được dựa trên vốn hóa của 500 công ty đại chúng lớn nhất nước Hoa Kỳ (S&P 500). Xu hướng quản trị quyền sở hữu trí tuệ chuyển từ quản lý quyền sang quản lý tài sản, thậm chí là tài sản chiến lược, trong đó chính phủ chuyển từ xác lập quyền sang hỗ trợ quản trị, định giá, sử dụng, bảo vệ tài sản trí tuệ hiệu quả.

Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8% trở lên vào năm 2025 và mức tăng trưởng “hai con số” trong giai đoạn 2026-2030, hướng tới nhóm nước thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nhóm nước thu nhập cao vào năm 2045. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với phát triển bền vững, chuyển đổi số, kinh tế số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn.

Mục tiêu quốc gia của Việt Nam là trở thành quốc gia số vào năm 2030, với sự phát triển mạnh mẽ của Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, đồng thời hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có khả năng cạnh tranh toàn cầu. Đối với chuyển đổi xanh, mục tiêu đặt ra là tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng nhằm đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội.

Việc sửa đổi, bổ sung pháp luật về sở hữu trí tuệ cũng cần phải thực hiện để bảo đảm thực hiện cam kết quốc tế trong bối cảnh thực tiễn thương mại thế giới thay đổi (sự bùng nổ của thương mại điện tử) và có thể để xử lý cả những vấn đề phát sinh trong quá trình đàm phán thương mại với Hoa Kỳ.

Về quan điểm xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, việc bổ sung, sửa đổi các quy định nhằm thể chế hóa, cụ thể hóa kịp thời chủ trương của Đảng, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật hiện hành và các cam kết quốc tế, loại bỏ sự chồng chéo, mâu thuẫn với các luật liên quan, đảm bảo tính khả thi và hiệu quả cao; giải quyết khoảng trống pháp lý trước xu thế phát triển mới như tài sản trí tuệ trong môi trường số, xu thế công nghệ mới.

Xác định, lựa chọn các vấn đề thực sự vướng mắc để kịp thời sửa đổi, tháo gỡ, tạo thuận lợi tối đa cho hoạt động xác lập, khai thác quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với yêu cầu thực tiễn và chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, trong đó xác định việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là công cụ để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đổi mới tư duy và phương thức quản lý nhà nước về hoạt động sở hữu trí tuệ phù hợp với bối cảnh mới trong nước và xu thế thế giới để bảo đảm hiệu quả quản lý đi đôi với giảm thiểu gánh nặng về thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân liên quan.

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết số 57-NQ/TW), trong đó đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2030 số lượng đơn đăng ký, văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16-18%/năm, tỷ lệ khai thác thương mại sáng chế đạt 8-10%. 

Đồng thời yêu cầu phải khẩn trương sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ các quy định pháp luật về SHTT để tháo gỡ các điểm nghẽn, rào cản, giải phóng các nguồn lực, khuyến khích, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, phát triển nguồn nhân lực.

Phong Lâm