Từ những luận điệu xuyên tạc, cố tình hạ thấp năng lực quốc gia
Thời gian gần đây, khi đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ, hướng tới mục tiêu trở thành một quốc gia hùng cường, hiện đại, thịnh vượng, lại xuất hiện nhiều luận điệu xuyên tạc, hạ thấp năng lực công nghệ và trình độ sản xuất công nghiệp của Việt Nam.
Điển hình là câu chuyện “Việt Nam không sản xuất nổi con ốc vít” bị đem ra tô vẽ, châm biếm. Nào là đất nước ta biến thành “bãi thải công nghệ”, phải sử dụng thiết bị lỗi thời; hàng vạn kỹ sư, giáo sư, tiến sĩ không có nổi một phát minh hữu ích, thua cả những “kỹ sư nông dân”…
Tất cả những ý kiến sai lệch đó đều nhằm tạo ra hình ảnh một Việt Nam yếu kém, công nghệ nghèo nàn, sản xuất manh mún, hoàn toàn phụ thuộc vào công nghệ bên ngoài.
Bên trong nhà máy ô tô Vinfast.
Cần nhắc lại rằng, câu chuyện “không thể tự sản xuất nổi con ốc vít” thực ra đã xảy ra hơn một thập kỷ trước, liên quan tới các đơn đặt hàng của Canon và Samsung.
Năm 2014, Samsung từng đưa ra danh sách 170 phụ kiện, bao gồm cả ốc vít, để doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng cho sản phẩm của họ. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam không tham gia “đơn đặt hàng ốc vít” này, vậy nhưng câu chuyện lại được đem ra thêu dệt đầy tiêu cực.
Đến khát vọng vươn lên của cả dân tộc
Hội nhập, rút ngắn khoảng cách, bắt kịp trình độ công nghệ của thế giới là quyết tâm, hành trình phấn đấu bền bỉ mà Việt Nam đã, đang và tiếp tục thực hiện trong nhiều năm qua.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991) mở đường cho những bước đột phá mới về công nghiệp hóa. Lần đầu tiên, phạm trù “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa” được xác định chính thức trong Văn kiện của Đảng. Trong điều kiện phát triển mới, công nghiệp hoá ở nước ta phải gắn liền với hiện đại hóa. Bởi lẽ, trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, nếu nước ta không tiến hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn so với trình độ phát triển chung của thế giới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, với mục tiêu tổng quát: “Phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao... Phấn đấu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 17-11-2022, “Về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Nghị quyết nêu rõ: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình thực hiện mục tiêu phát triển đất nước thành nước có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, thuộc nhóm nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực châu Á.
Ngày 22/12/2024, trước yêu cầu lịch sử, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Mục tiêu Nghị quyết 57 đặt ra: Đất nước ta đang đứng trước yêu cầu cần có chủ trương, quyết sách mạnh mẽ, mang tính chiến lược và cách mạng để tạo xung lực mới, đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, để đưa đất nước phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên giàu mạnh, hùng cường, thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Mục tiêu đến năm 2030: Tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở nhiều lĩnh vực quan trọng, thuộc nhóm dẫn đầu trong các nước có thu nhập trung bình cao; trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp đạt mức trên trung bình của thế giới; một số lĩnh vực khoa học, công nghệ đạt trình độ quốc tế.
Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á, nhóm 50 nước đứng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử; nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo, trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế. Tối thiểu có 5 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến.
Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 55%; tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trên tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu đạt tối thiểu 50%. Quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP. Tỉ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến của người dân và doanh nghiệp đạt trên 80%; giao dịch không dùng tiền mặt đạt 80%. Tỉ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt trên 40% trong tổng số doanh nghiệp.
Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo góp phần quan trọng xây dựng, phát triển giá trị văn hoá, xã hội, con người Việt Nam, đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,7.
Kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 2% GDP, trong đó kinh phí từ xã hội chiếm hơn 60%; bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển. Hệ thống tổ chức khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo được sắp xếp lại bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu - ứng dụng - đào tạo.
Nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người trên một vạn dân; có từ 40 - 50 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới; số lượng công bố khoa học quốc tế tăng trung bình 10%/năm; số lượng đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16 - 18%/năm, tỉ lệ khai thác thương mại đạt 8 - 10%.
Hạ tầng công nghệ số tiên tiến, hiện đại, dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng ngang tầm các nước tiên tiến; từng bước làm chủ một số công nghệ chiến lược, công nghệ số như: Trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn, điện toán đám mây, chuỗi khối, bán dẫn, công nghệ lượng tử, nano, thông tin di động 5G, 6G, thông tin vệ tinh và một số công nghệ mới nổi. Phủ sóng 5G toàn quốc.
Hoàn thành xây dựng đô thị thông minh đối với các thành phố trực thuộc Trung ương và một số tỉnh, thành phố có đủ điều kiện. Thu hút thêm ít nhất 3 tổ chức, doanh nghiệp công nghệ hàng đầu thế giới đặt trụ sở, đầu tư nghiên cứu, sản xuất tại Việt Nam.
Quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương trên môi trường số, kết nối và vận hành thông suốt giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị. Hoàn thành xây dựng, kết nối, chia sẻ đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu các ngành; khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên số, dữ liệu số, hình thành sàn giao dịch dữ liệu.
Phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, công nghiệp văn hoá số đạt mức cao của thế giới. Việt Nam thuộc nhóm các nước dẫn đầu về an toàn, an ninh không gian mạng, an ninh dữ liệu và bảo vệ dữ liệu.
Tầm nhìn đến năm 2045: khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phát triển vững chắc, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Việt Nam có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50% GDP; là một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới; thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Tỉ lệ doanh nghiệp công nghệ số tương đương các nước phát triển; tối thiểu có 10 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến. Thu hút thêm ít nhất 5 tổ chức, doanh nghiệp công nghệ hàng đầu thế giới đặt trụ sở, đầu tư nghiên cứu, sản xuất tại Việt Nam.
Hưởng ứng Nghị quyết 57, chưa bao giờ việc “đột phá phát triển công nghệ, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia” được lan tỏa sâu rộng như hiện nay. Tinh thần “đi từng ngõ, gõ từng nhà”để chuyển đổi số, “Bình dân học vụ số” đang đi vào thực chất, Chính phủ số, công dân số, kinh tế số đang hiện hữu hơn bao giờ hết. Công nghệ xanh, Bigdata, IoT, AI, tự động hoá, R&D… đang được toàn xã hội quan tâm, đầu tư, đưa vào ứng dụng.
Nghĩ lớn, làm lớn để cả dân tộc cùng tiến lên!
Tự lực tự cường phát triển công nghiệp, đột phá khoa học công nghệ. Tự tin vươn tới hùng cường với niềm tin và sức mạnh nội sinh mấy nghìn năm lịch sử hào hùng, chúng ta hoàn toàn có quyền đặt niềm tin vào trình độ sản xuất công nghiệp và giá trị hàng hóa khi tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Giống như Phù Đổng Thiên Vương vụt lớn khi có giặc ngoại xâm, nền công nghiệp Việt Nam đã trỗi dậy mạnh mẽ từ một nền kinh tế nông nghiệp, chịu nhiều hậu quả chiến tranh và bao vây cấm vận. Trong bối cảnh khó khăn, các doanh nghiệp Việt Nam đã tự lực, tự cường, xây dựng nên những ngành công nghiệp chủ lực như dệt may, da giày, điện tử, công nghệ cao...
Tại Triển lãm thành tựu ngành Công Thương năm 2025 với chủ đề “80 năm ngành Công Thương lớn mạnh cùng đất nước”, nhiều bạn trẻ đã không khỏi giật mình khi được chứng kiến những thành tựu kinh tế công nghiệp.
Không tự tin, tự hào thì sao có đủ nhiệt huyết, đủ tận tâm, tận hiến, tận lực đưa sản xuất công nghiệp Việt Nam đột phá, trở nên hùng mạnh, cạnh tranh sòng phẳng với kinh tế toàn cầu?
Bước vào kỷ nguyên vươn mình, công nghiệp Việt Nam thực sự bước vào một vận hội mới để có thể thực sự đóng vai trò “then chốt” trong phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta có quyền tự hào khi biết rằng từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, phải gánh chịu hậu quả chiến tranh nặng nề, nhiều năm bị bao vây cấm vận nhưng nhờ công cuộc đổi mới đến nay, Việt Nam đứng thứ 3 khu vực ASEAN về giá trị sản lượng công nghiệp.
Việt Nam cũng là một trong số những quốc gia hàng đầu xuất khẩu ra thế giới nhiều mặt hàng công nghiệp quan trọng. Nhiều ngành sản xuất công nghiệp chủ lực của Việt Nam đã hình thành và không ngừng phát triển như dầu khí, năng lượng, dệt may, da giầy, điện máy, cơ khí, điện tử, sản xuất phần mềm, chế biến thực phẩm, vật liệu xây dựng…
Ngành sản xuất xe máy tại Việt Nam có tỷ lệ nội địa hóa đạt 85-95%, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Việt Nam cũng đã đáp ứng được một phần nhu cầu linh kiện kim loại cho sản xuất ô tô và cung ứng một số linh kiện cho các ngành công nghệ cao. Bên cạnh dấu ấn đang đầu tư phát triển mạnh mẽ ngành năng lượng tái tạo, sản xuất Robot, xe ô-tô điện, công nghiệp quốc phòng, Việt Nam cũng ngày càng chú trọng vào sản xuất chip, công nghệ viễn thông, hàng không, vũ trụ.
Không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế liên tục mấy thập kỷ qua, sản xuất công nghiệp còn đem lại nguồn ngoại tệ lớn nhờ xuất khẩu, tạo ra hàng triệu công ăn việc làm, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp - dịch vụ theo đúng chủ trương của Đảng, Nhà nước.
Thật lạc lõng và vô lý nếu cho rằng sản xuất công nghiệp, trình độ công nghiệp của Việt Nam là yếu kém! Bởi, nếu “yếu kém” như nhận định và tuyên truyền của những kẻ “tự ti” và những kẻ chống phá đất nước, làm sao Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có kim ngạch xuất khẩu hàng đầu vào các thị trường khó tính, yêu cầu chất lượng hàng hóa cao như Mỹ, EU, Nhật Bản?…