Nhận diện những rào cản
Tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi chưa đạt kỳ vọng là một câu hỏi lớn trong nỗ lực thúc đẩy xuất khẩu hiện nay. Tại Phiên thảo luận 2 với chủ đề “Tối ưu hóa lợi thế FTA và quản trị rủi ro” trong khuôn khổ Diễn đàn Xúc tiến Xuất khẩu Việt Nam 2025 diễn ra sáng 26/11, đại diện các hiệp hội ngành hàng, cơ quan quản lý và chuyên gia đã chia sẻ nhiều góc nhìn sâu sắc về vấn đề này.
Ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách Thương mại đa biên, cho biết việc tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA) hiện chỉ đạt trung bình 32-33%. Cụ thể, CPTPP khoảng 16%, UKVFTA khoảng 38%, EVFTA khoảng 35%. Nguyên nhân xuất phát từ cả phía doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý.
Về phía doanh nghiệp, ông Khanh nêu rõ: “Tư duy thích gần, thích dễ, nhiều doanh nghiệp thấy ‘đủ rồi’, không muốn nâng tầm thương hiệu hay mở rộng thị trường. Đồng thời, họ thiếu thông tin về thị trường, thiếu nguồn lực, kết nối yếu và cạnh tranh nội bộ chưa lành mạnh, triệt tiêu thế mạnh lẫn nhau”.
Các đại biểu tham dự Toạ đàm với chủ đề “Tối ưu hóa lợi thế FTA và quản trị rủi ro”. Ảnh: Thái Mạnh
Ở phía cơ quan quản lý, ông Khanh phân tích: “Chương trình hỗ trợ tận dụng FTA chưa rõ ràng; kế hoạch thì có nhưng thiếu triển khai thực chất. Năng lực địa phương hạn chế khi mỗi tỉnh chỉ có một vài cán bộ phụ trách, kiêm nhiệm nhiều việc.”
Bà Hoàng Thị Liên, Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu và Cây gia vị Việt Nam, lấy ví dụ cụ thể ngành gia vị: khó khăn lớn nhất khi tham gia FTA là vấn đề bền vững và truy xuất nguồn gốc, sau đó mới đến xây dựng thương hiệu. “Thị trường EU hiện có hơn 535 tiêu chí về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Do sản phẩm nông nghiệp phụ thuộc thời tiết, dịch bệnh, bà con phải áp dụng các biện pháp chăm sóc cây để đảm bảo sản lượng. Xuất khẩu sang EU đòi hỏi giám sát chất lượng tuyệt đối”, bà Liên cho biết.
Các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ còn gặp khó khi gom nhiều hộ để tạo mẫu đồng nhất. Chi phí kiểm định chất lượng tại phòng lab quốc tế rất cao, từ 3 - 5 triệu đồng/mẫu, trong khi phòng lab trong nước chưa được công nhận ISO. Việc hoàn thuế VAT cũng gặp ách tắc, gây khó khăn về vốn cho vụ mùa mới.
Trong ngành dệt may, ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, chia sẻ: “Khai thác các FTA như CPTPP, ngành chúng tôi mới sử dụng khoảng 15%; EVFTA khoảng 30 - 35%. Nguyên phụ liệu còn yếu, đặc biệt là vải, dệt, nhuộm, và đây là vấn đề mà doanh nghiệp, cơ quan quản lý và địa phương chưa giải quyết triệt để.”
Giải pháp tăng khả năng ‘Go Global’ và khai thác thị trường mới
Tại phiên thảo luận, ông Ngô Chung Khanh nhấn mạnh, tư duy đã ‘Go Global’ thì dù khó hay dễ cũng phải chơi. Cùng đó, kế hoạch tận dụng các FTA phải rõ ràng, cụ thể: Doanh nghiệp làm gì, Trung ương, địa phương hỗ trợ gì.
“Sắp tới sẽ có hệ sinh thái FTA, kết nối các chủ thể trong và ngoài nước để hỗ trợ hiệu quả hơn. Kỳ vọng hiện sinh thái này ra đời sẽ giúp các doanh nghiệp tận dụng tốt hơn các ưu đãi từ các FTA”, lãnh đạo Vụ Chính sách Thương mại đa biên cho hay.
Đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp ngành gia vị, bà Liên cũng nhấn mạnh vai trò của Nhà nước và hiệp hội: “Trong quá trình ‘Go Global’, Nhà nước nên hỗ trợ chuỗi, vì doanh nghiệp vừa và nhỏ yếu nhất là năng lực tài chính để đáp ứng yêu cầu chứng chỉ. Thứ hai là phòng lab, ngành nông nghiệp chỉ có hai phòng lab được nhà mua quốc tế chấp nhận là SGS và Eurofins. Nhà nước cần đầu tư phòng lab địa phương đạt chuẩn để hỗ trợ doanh nghiệp”, bà Liên nói.
Ông Trương Văn Cẩm cũng bày tỏ, chiến lược tiếp theo là đa dạng hóa thị trường, khách hàng và sản phẩm để khai thác tốt các thị trường toàn cầu. Ngoài thị trường truyền thống, chúng tôi đang chú trọng Trung Đông với dân số khoảng 370 triệu người và GDP khoảng 5.500 tỷ USD. Đây là thị trường tiềm năng nhưng để khai thác còn thiếu rất nhiều, đặc biệt thông tin thị trường và yêu cầu tiêu chuẩn như Halal, loại vải thông thoáng.
Ông Lê Sỹ Giảng, Giám đốc điều hành CHG Consulting & Advisory (bên phải). Ảnh: Thái Mạnh
Các chuyên gia cũng nhấn mạnh vai trò của quản trị nội bộ và nâng cao năng lực doanh nghiệp. Ông Lê Sỹ Giảng, Giám đốc điều hành CHG Consulting & Advisory, lưu ý, rủi ro pháp lý và rào cản là khách quan. Điều doanh nghiệp có thể làm là dự báo và chuẩn bị ứng phó. Các rủi ro liên quan tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường, hoặc phòng vệ thương mại đều cần quản trị chặt chẽ. Doanh nghiệp phải nâng cao hiểu biết về các rào cản, quản trị chất lượng sản phẩm và quản lý toàn bộ chu trình sản xuất. Ví dụ, hệ thống ghi nhận đầy đủ từ đầu vào đến đầu ra để khi bị yêu cầu truy xuất nguồn gốc, doanh nghiệp có thể trả lời ngay.
Hiệp hội đóng vai trò quan trọng trong kết nối, tư vấn và hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận FTA. Công việc này bao gồm hỗ trợ hoàn thuế VAT, cập nhật tiêu chuẩn kỹ thuật, cảnh báo tranh chấp thương mại, hướng dẫn đàm phán hợp đồng quốc tế và kết nối chuỗi cung ứng trong nước.
Từ ngành hồ tiêu, gia vị đến dệt may, các doanh nghiệp Việt Nam đều chung thách thức khi thiếu nguồn lực, thông tin và chuẩn hóa chất lượng để tận dụng ưu đãi FTA. Tuy nhiên, cơ hội vẫn rộng mở nếu có chiến lược rõ ràng, chuẩn bị kỹ lưỡng và sự hỗ trợ đồng bộ từ Nhà nước, hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp.
Tận dụng FTA để tăng xuất khẩu không chỉ là vấn đề cơ chế mà còn là bài toán về năng lực doanh nghiệp, kết nối thị trường và chuẩn hóa chất lượng sản phẩm. Để nâng cao tỷ lệ sử dụng FTA, cần đồng bộ nhiều giải pháp: nâng cao nhận thức, đào tạo chuyên môn, đầu tư cơ sở hạ tầng kiểm định, hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, và kết nối thông tin thị trường quốc tế. Chỉ khi các yếu tố này được triển khai đồng bộ, cơ hội từ các FTA mới thực sự được chuyển hóa thành tăng trưởng xuất khẩu bền vững cho Việt Nam.
Cùng với phiên thảo 1, phiên thảo luận 2 tiếp tục nhận được sự quan tâm, bàn thảo của các chuyên gia, doanh nghiệp nhằm mở ra định hướng tốt hơn cho việc gia tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi, giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp Việt khi tiến ra thị trường thế giới.