Tốc độ phát triển “chóng mặt”
Theo thống kê từ Ngân hàng Thế giới (World Bank), trong những năm gần đây, lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) của Việt Nam có sự phát triển nhanh chóng. Tỷ lệ phủ sóng 4G, vốn gần như bằng 0 trước năm 2016 đã đạt gần 100% từ năm 2019. Điều này phản ánh sự mở rộng mạnh mẽ của hạ tầng mạng tốc độ cao. Số thuê bao di động trên 100 dân duy trì ở mức cao.
Về cơ sở hạ tầng internet, băng thông quốc tế tăng hơn 13 lần, từ 927,687 bit/ giây (2014) lên 12,223,500 bit/giây (2023), minh chứng cho đầu tư lớn vào hạ tầng số. Tỷ lệ hộ gia đình có internet tăng mạnh từ 18,6% (2014) lên 87,7% (2023), phản ánh sự phổ cập nhanh chóng của kết nối số trong đời sống.
Đối với thuê bao cố định, số đường dây điện thoại cố định trên 100 dân tăng từ 6,54 (2014) lên 22,68 (2023), song không còn là chỉ số quan trọng trong bối cảnh người dùng chuyển sang dịch vụ di động. Ngược lại, thuê bao băng rộng cố định giảm từ 7,33 xuống 2,30 trong cùng kỳ, cho thấy xu hướng thay thế bằng internet di động và wifi.
Lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông tại Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ trong những năm qua. Ảnh minh hoạ
Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đã chứng kiến sự bùng nổ của ICT, đi kèm với quá trình hội nhập thương mại và cải thiện thu nhập bình quân đầu người. ICT đã dần trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Khắc Lịch, Cục trưởng Cục Công nghiệp Công nghệ thông tin (Bộ Khoa học và Công nghệ), việc phát triển ICT tại Việt Nam hiện vẫn còn gặp nhiều khó khăn chủ yếu do thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là trong các lĩnh vực mới nổi; hạ tầng công nghệ và khung pháp lý chưa đồng bộ; tốc độ phát triển công nghiệp ICT không đồng đều giữa các khu vực, dẫn đến khoảng cách số (digital divide) giữa thành thị và nông thôn, giữa các nhóm dân cư khác nhau... Để vượt qua những khó khăn này, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức giáo dục đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực và hoàn thiện môi trường pháp lý.
5 nhóm giải pháp thúc đẩy ICT phát triển bền vững
Theo GS.TS Trần Thị Thanh Tú (Đại học Quốc gia Hà Nội), sự bùng nổ của ICT cần được nhìn nhận trong mối quan hệ tương hỗ với tăng trưởng dân số, thương mại và phát thải, để từ đó xây dựng lộ trình chuyển đổi kép vừa đảm bảo phát triển số, vừa kiểm soát được chi phí môi trường,
Thứ nhất, Chính phủ cần đầu tư sớm, có hệ thống và gắn với hiệu quả năng lượng trong hạ tầng ICT. Việc mở rộng Internet, phát triển dịch vụ công trực tuyến hay xây dựng trung tâm dữ liệu hiện đại ở các tỉnh, thành phố, đặc biệt trong quá trình chuyển đổi chính quyền địa phương hai cấp, phải đi đôi với áp dụng các công nghệ tiết kiệm năng lượng và ưu tiên sử dụng năng lượng tái tạo.
Kinh nghiệm từ các quốc gia đang phát triển đã cho thấy, điều này đặc biệt quan trọng với Việt Nam, nơi nguồn lực hạn chế đòi hỏi phải lựa chọn các giải pháp chi phí thấp nhưng hiệu quả, chẳng hạn như khai thác công nghệ nguồn mở, chia sẻ hạ tầng, hay triển khai dịch vụ số dựa trên hợp tác công - tư. Đầu tư chiến lược theo hướng này không chỉ giúp tận dụng lợi ích của ICT đối với tăng trưởng mà còn giảm thiểu nguy cơ “bẫy phát thải” trong giai đoạn đầu của quá trình số hóa.
Thứ hai, cần tích hợp năng lượng tái tạo và các mô hình phát triển kinh tế tuần hoàn vào trong chiến lược phát triển số. Việc sử dụng năng lượng mặt trời, gió hoặc thủy điện để vận hành hạ tầng ICT có thể góp phần giảm phát thải khí nhà kính, trong khi các chương trình tái sử dụng và tái chế thiết bị công nghệ sẽ kéo dài vòng đời sản phẩm, giảm áp lực lên tài nguyên thiên nhiên và hạn chế chất thải điện tử.
Các chương trình tái chế linh kiện điện tử trong trường học, cơ quan công quyền hoặc sáng kiến sửa chữa - tái sử dụng thiết bị cũ sẽ giúp mở rộng truy cập số mà không đòi hỏi nguồn vốn quá lớn. Điều này mang lại lợi ích kép: vừa thúc đẩy bao trùm số, vừa giảm thiểu tác động môi trường, đặc biệt hữu ích đối với các quốc gia đang phát triển.
GS.TS Trần Thị Thanh Tú (Đại học Quốc gia Hà Nội). Ảnh: Đắc Thành
Thứ ba, hợp tác quốc tế và chuyển giao công nghệ công bằng là yếu tố không thể thiếu để đảm bảo thành công của chuyển đổi kép. Các quốc gia phát triển có thể hỗ trợ về công nghệ sạch, quản lý năng lượng hay mô hình kinh tế tuần hoàn, trong khi các quốc gia đang phát triển cần tập trung vào xây dựng năng lực đổi mới nội địa, đào tạo nhân lực và phát triển trung tâm nghiên cứu công nghệ. Chuyển giao công nghệ cần gắn với trao quyền sáng tạo cho các chủ thế, đảm bảo rằng đơn vị tiếp nhận không chỉ là người dùng thụ động mà có khả năng điều chỉnh, sáng tạo và áp dụng giải pháp phù hợp với bối cảnh quốc gia, tỉnh, thành và các trường đại học, viện nghiên cứu. Đây cũng là một trong những trọng tâm mà Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo đã chỉ đạo.
Thứ tư, việc xây dựng khung pháp lý rõ ràng và cơ chế giám sát chặt chẽ là điều kiện tiên quyết. Các chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo trong ICT, áp dụng tiêu chuẩn ISO 14001 hay các quy chuẩn về phát thải đối với trung tâm dữ liệu sẽ giúp định hướng sự phát triển số theo hướng bền vững. Đồng thời, cần có cơ chế giám sát và chế tài đủ mạnh để ngăn chặn các hoạt động gây hại đến môi trường trong quá trình mở rộng hạ tầng số. Một khung thể chế minh bạch và nhất quán không chỉ tạo niềm tin cho doanh nghiệp và nhà đầu tư mà còn đảm bảo ICT thực sự trở thành công cụ phục vụ phát triển xanh. Hàm ý này rất quan trọng để các nhà hoạch định chính sách tham khảo đưa vào trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật chuyển đổi số 2025.
Thứ năm, Chính phủ cân nhắc áp dụng chiến lược phân giai đoạn trong triển khai chuyển đổi kép. Thay vì đầu tư đồng thời vào cả hạ tầng số và hạ tầng xanh, cần ưu tiên xây dựng hệ thống năng lượng tái tạo và cơ sở hạ tầng xanh trước, sau đó mở rộng ICT trên nền tảng đó. Cách tiếp cận này giúp tối ưu hóa hiệu quả nguồn lực, giảm rủi ro đầu tư và đảm bảo rằng hạ tầng số được vận hành bằng nguồn năng lượng sạch ngay từ đầu. Kinh nghiệm này đặc biệt quan trọng ở các quốc gia đang phát triển, nơi các nguồn lực hạn chế đòi hỏi sự lựa chọn ưu tiên rõ ràng.
Thứ sáu, cơ sở hạ tầng xanh phải được coi là nền tảng cốt lõi của chuyển đổi kép. Sử dụng năng lượng tái tạo trong các hoạt động ICT, áp dụng công nghệ tiết kiệm điện năng trong trung tâm dữ liệu, hoặc phát triển các mô hình tuần hoàn trong sản xuất và tiêu dùng thiết bị công nghệ sẽ giúp giảm đáng kể phát thải khí nhà kính. Việt Nam cần đầu tư sớm vào cơ sở hạ tầng xanh sẽ có lợi thế trong việc khai thác ICT như một công cụ không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn hỗ trợ đạt được các mục tiêu môi trường.
Việt Nam và các quốc gia đang phát triển cần tận dụng lợi thế chi phí dữ liệu ngày càng thấp và khả năng tiếp cận ICT ngày càng rộng để thúc đẩy chuyển đổi số, hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững trong kỷ nguyên số.