Các công nghệ số thế hệ mới tạo động lực cho chuyển đổi xanh
Đối với Việt Nam, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo là yêu cầu khách quan và là lựa chọn chiến lược để phát triển nhanh, bền vững, chuyển đổi nền kinh tế từ nâu sang xanh. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã chủ động hoàn thiện khung thể chế và chính sách, tạo hành lang pháp lý thông suốt để khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực của chuyển đổi xanh và tăng trưởng bền vững đất nước.
Có thể kể đến việc Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 12/6/2025 ban hành Danh mục công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược.Chương trình quốc gia lấy sản phẩm công nghệ chiến lược làm trung tâm từ đó xác định các công nghệ lõi cần làm chủ và hình thành nên các ngành công nghiệp mới.
Công nghệ lõi được lựa chọn để làm chủ là các công nghệ có tính chất quyết định tới sản phẩm, có tỷ lệ giá trị cao trong sản phẩm, khó thay thế bằng nhập khẩu. Việt Nam sẽ làm chủ sản phẩm chiến lược, bằng cách làm chủ thiết kế, làm chủ tích hợp thành sản phẩm và làm chủ các công nghệ lõi, từ đây sẽ hình thành nên các ngành công nghiệp mới
Với Việt Nam, các công nghệ đột phá có thể tạo ra sự thay đổi căn bản sự phát triển xanh của nhân loại là hydrogen, pin thế hệ mới, công nghệ carbon thấp, công nghệ tuần hoàn, công nghệ hạt nhân vì mục đích hòa bình. Các công nghệ số thế hệ mới tạo động lực cho chuyển đổi xanh là AI, IoT, Big Data, Chip bán dẫn.
Ngay từ năm 2022, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành các Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia, trong đó có nhiều mục tiêu, nội dung nghiên cứu đáp ứng yêu cầu chuyển đổi xanh, tăng trưởng xanh. Hiện tại, Bộ Khoa học và Công nghệ có chủ trương tái cơ cấu các chương trình khoa học và công nghệ theo hướng giảm số lượng các chương trình nhưng vẫn đảm bảo các mục tiêu, nội dung của các chương trình đã ban hành.
Phát triển công nghệ năng lượng tái tạo là một trong những ưu tiên để thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Ảnh minh hoạ
Tạo ra những đột phá về mặt công nghệ
Cũng theo Bộ Khoa học và Công nghệ, một trong những định hướng đang được Bộ triển khai là tạo đột phá về công nghệ xanh dựa trên nền tảng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Trong đó, đối với năng lượng tái tạo và năng lượng mới, sẽ tập trung phát triển hệ sinh thái công nghệ năng lượng tái tạo gồm: điện gió (đặc biệt ngoài khơi), điện mặt trời, thủy triều, sinh khối, hydrogen xanh, ammonia xanh, nhiên liệu sinh học và pin nhiên liệu thế hệ mới.
Bộ Khoa học và Công nghệ đã xây dựng định hướng nghiên cứu cơ bản như: ứng dụng công nghệ lưu trữ năng lượng tiên tiến (battery, flywheel, hydrogen, compressed air...) và lưới điện thông minh tích hợp năng lượng tái tạo, quản lý phụ tải và dự báo nhu cầu điện bằng AI; nghiên cứu giải pháp chuyển dịch năng lượng theo hướng giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch: kết hợp năng lượng tái tạo – điện hạt nhân thế hệ mới (SMR); thúc đẩy chuyển giao công nghệ và nội địa hóa thiết bị (tuabin, pin mặt trời, pin lưu trữ, vật liệu hấp thụ năng lượng); ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý, phân phối và tiêu thụ năng lượng; xây dựng hệ thống giám sát năng lượng thông minh, đánh giá hiệu suất và phát thải theo thời gian thực; nghiên cứu chuỗi giá trị hydro xanh từ sản xuất, lưu trữ, vận chuyển đến sử dụng trong công nghiệp, giao thông, và phát điện.
Về công nghệ carbon thấp và kinh tế tuần hoàn, Bộ Khoa học và Công nghệ đã có định hướng nghiên cứu về thu giữ và lưu trữ carbon (CCUS), tái chế vật liệu, công nghệ xử lý chất thải công nghiệp và đô thị.
Về công nghệ số, các định hướng nghiên cứu lớn gồm: phát triển và ứng dụng AI, Big Data, IoT, Blockchain trong giám sát phát thải, tiêu thụ năng lượng, truy xuất nguồn gốc carbon, quản lý chất thải và chuỗi cung ứng xanh; xây dựng nền tảng dữ liệu số quốc gia về phát thải khí nhà kính và năng lượng, phục vụ hoạch định chính sách và kiểm kê khí nhà kính; ứng dụng mô phỏng số và phân tích dữ liệu thời gian thực trong quy hoạch năng lượng, đô thị xanh, nông nghiệp tuần hoàn; phát triển công nghệ cảm biến và tự động hóa để đo, giám sát, cảnh báo phát thải và sử dụng năng lượng trong sản xuất, giao thông, xây dựng; tích hợp chuyển đổi số với chuyển đổi xanh trong mô hình “nhà máy thông minh – không carbon”, “đô thị xanh – số hóa”, “nông nghiệp thông minh – tuần hoàn.
Đối với việc phát triển công nghệ hạt nhân vì mục đích hòa bình, Bộ Khoa học và Công nghệ xác định ba trọng tâm lớn gồm: phát triển điện hạt nhân, thúc đẩy công nghệ lò năng lượng mô đun nhỏ (SMR) và mở rộng ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh toàn cầu đang hướng đến chuyển đổi năng lượng xanh và bền vững, điện hạt nhân đóng vai trò then chốt trong bảo đảm an ninh năng lượng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia. Điện hạt nhân không chỉ là vấn đề của ngành năng lượng mà còn là nền tảng cho nền kinh tế xanh, cho trí tuệ nhân tạo và cho tương lai của đất nước.
Thực hiện nhiệm vụ trên, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã được lãnh đạo Bộ Khoa học và công ngệ giao xây dựng lộ trình phát triển điện hạt nhân theo từng giai đoạn 5 năm, đến năm 2045, trong đó đặc biệt chú trọng giai đoạn đến 2030. Mỗi giai đoạn có mục tiêu rõ ràng, phân chia theo các trục: nhân lực, công nghệ, hạ tầng, thị trường. Các phòng thí nghiệm của Viện (bao gồm lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt và các phòng thí nghiệm khác) cần được nâng cấp và đầu tư để đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và phục vụ cho nghiên cứu, đào tạo, và thương mại hóa.
Các dự án lớn (như lò SMR) được định hướng đầu tư theo hình thức đầu tư quốc gia, với sự tham gia của các doanh nghiệp và chuyên gia quốc tế. Tại Việt Nam, ứng dụng bức xạ và kỹ thuật hạt nhân có sự phát triển nhanh, công nghệ hiện đại, mang lại hiệu quả cao, đặc biệt một số kỹ thuật là không thể thay thế như việc chẩn đoán bằng hình ảnh và điều trị khối u bằng thuốc phóng xạ đặc hiệu, xạ trị ung thư sử dụng máy gia tốc trong y học; chiếu xạ khử trùng, chiếu xạ vật liệu, chụp ảnh phóng xạ thăm dò khuyết tật, đo độ dày, mật độ trong công nghiệp; chiếu xạ gây đột biến sinh học, tiệt trùng sinh vật gây hại, truy xuất nguồn gốc thực phẩm, nông sản trong nông nghiệp; nghiên cứu, đánh giá tài nguyên nước, ô nhiễm rác thải nhựa trong tài nguyên môi trường.
Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chính là đột phá chiến lược của đột phá, là nguồn năng lượng mới để Việt Nam đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững và phát thải ròng bằng 0. Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã và đang chuyển từ vai trò hỗ trợ sang vai trò kiến tạo và dẫn dắt, góp phần hình thành nền kinh tế xanh, tuần hoàn, carbon thấp, đồng thời củng cố tiềm lực khoa học quốc gia và nâng cao vị thế Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.