Cam Nam Đông gắn bó sinh kế người miền núi
Hiện nay, cam Nam Đông được trồng nhiều ở các xã Nam Đông, Long Quảng, Khe Tre, thành phố Huế. Đây cũng là những vùng đất tập trung nhiều đồng bào dân tộc Cơ Tu. Bắt từ đầu từ tháng 10, tháng 11 hằng năm là mùa chính vụ thu hoạch cam Nam Đông. Đã từ lâu loài cây này đã trở thành loại cây trồng chủ lực, không chỉ gắn bó với đất đai vùng dân tộc thiểu số và miền núi mà còn gắn liền với cuộc sống của người dân bản địa. Những quả cam căng mọng, ngọt thanh, thơm dịu đã góp phần làm nên danh tiếng cho một vùng đất núi của thành phố Huế.
Cam Nam Đông được Cục Sở hữu trí tuệ cấp nhãn hiệu tập thể. Ảnh: Nguyễn Tuấn
Sau khi vận hành chính quyền 2 cấp, nhiều địa phương được sáp nhập lại, sự thay đổi về cơ chế quản lý và quy hoạch này mở ra cơ hội mới để phát triển các vùng trồng chuyên canh, trong đó cam Nam Đông được xác định là một trong những cây trồng chiến lược, mang lại giá trị kinh tế cao cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Từ một loại nông sản chủ yếu phục vụ tiêu dùng địa phương, cam Nam Đông đã vươn mình ra thị trường rộng lớn hơn. Với chất lượng nổi bật, cam Nam Đông đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp nhãn hiệu tập thể. Đây là cột mốc quan trọng giúp loại nông sản này khẳng định được tên tuổi, đồng thời tạo niềm tin cho người tiêu dùng về nguồn gốc, chất lượng cũng như quy trình sản xuất.
Tuy nhiên, trên hành trình chinh phục thị trường, cam Nam Đông cũng không tránh khỏi những khó khăn. Nhiều nhà nông cho biết, những năm gần đây, hiện tượng sâu bệnh diễn ra phức tạp do thời tiết mưa nhiều, độ ẩm cao làm tăng nguy cơ phát sinh bệnh vàng lá, rụng quả và thối rễ. Việc áp dụng biện pháp canh tác lạc hậu ở một số vườn cam chưa được chuyển đổi kịp thời khiến năng suất không ổn định, ảnh hưởng đến thu nhập của người dân. Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ cũng đặt ra nhiều thách thức như sự cạnh tranh đến từ các vùng trồng cam khác, cùng với các loại trái cây khác như bưởi, xoài, thanh long... khiến việc tiêu thụ cam Nam Đông gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là vào thời điểm chính vụ.
Xây dựng thương hiệu, mở rộng thị trường tiêu thụ
Dù đối mặt với nhiều thách thức trong canh tác và tiêu thụ, người dân vùng núi vẫn tiếp tục gắn bó với cây cam như một phần trong sinh kế lâu dài. Với sự hỗ trợ từ chính quyền thành phố và ngành nông nghiệp, nhiều địa phương đã chủ động chuyển đổi diện tích cây trồng kém hiệu quả sang trồng cam. Việc quy hoạch vùng trồng theo hướng tập trung, ứng dụng kỹ thuật tiên tiến và phát triển các mô hình sản xuất bền vững đang giúp cây cam từng bước khẳng định vị thế là cây trồng chủ lực vùng cao.
Người dân thu hoạch cam Nam Đông. Ảnh: Nguyễn Tuấn
Hiện nay, tổng diện tích trồng cam tại các địa phương xã Long Quảng, Nam Đông, Khe Tre sau sáp nhập đạt khoảng hơn 200 ha, trong đó hơn một nữa đã đã cho thu hoạch. Sản lượng hàng năm ước đạt trên 1.000 tấn; trong đó có khoảng 50 ha được chứng nhận đạt chuẩn VietGAP, cung cấp ra thị trường khoảng 150 tấn cam sạch mỗi vụ. Diện tích này đang tiếp tục được mở rộng với mục tiêu đến năm 2026 có ít nhất 70% diện tích cam được sản xuất theo hướng an toàn và truy xuất nguồn gốc đầy đủ.
Trao đổi với Báo Công Thương, ông Nguyễn Anh, Chủ tịch UBND xã Long Quảng cho biết, hiện nay cam đang bắt đầu mùa thu hoạch rộ, giá thu mua của thương lái khoảng 20.000 – 25.000 đồng/kg, diện tích trồng trên toàn xã khoảng hơn 20 ha, trong đó 17,9 ha đã cho thu hoạch, năng suất khoảng 15 tấn/ha. “Dự kiến vụ cam năm nay, toàn địa bàn xã thu hoạch khoảng 270 tấn, với giá hiện hành, người trồng cam thu về hơn 6,7 tỷ đồng, trong đó có số lượng lớn diện tích cam được trồng theo tiêu chuẩn VietGAP”, ông Anh cho biết thêm.
Một trong những bước tiến đáng kể là việc ứng dụng quy trình kỹ thuật canh tác tiên tiến vào sản xuất. Các mô hình canh tác theo tiêu chuẩn VietGAP đã được triển khai với hiệu quả rõ rệt. Người trồng cam được tập huấn về cách chọn giống sạch bệnh, kỹ thuật bón phân cân đối, phòng trừ sâu bệnh bằng biện pháp sinh học và quản lý đồng ruộng hợp lý. Đặc biệt, các hộ tham gia sản xuất VietGAP đều thực hiện ghi chép nhật ký sản xuất, giúp truy xuất nguồn gốc rõ ràng và nâng cao độ tin cậy cho sản phẩm khi đưa ra thị trường.
Ngoài ra, việc đầu tư vào khâu bảo quản sau thu hoạch cũng đang được chú trọng. Một số hợp tác xã và tổ hợp tác đã mạnh dạn đầu tư kho sơ chế, kho lạnh, bao bì nhãn mác, mã QR để phục vụ thị trường siêu thị, sàn thương mại điện tử và các chuỗi phân phối hiện đại.
Nhiều diện tích cam Nam Đông được trồng theo tiêu chuẩn VietGAP. Ảnh: Nguyễn Tuấn
Song song với đó, việc quảng bá sản phẩm cũng được tăng cường. Nhãn hiệu tập thể “Cam Nam Đông” đã được sử dụng thống nhất, đi kèm với tem truy xuất nguồn gốc giúp người tiêu dùng dễ dàng nhận diện và phân biệt sản phẩm chính hãng. Một số hoạt động kết nối thị trường được tổ chức thường xuyên với sự tham gia của các doanh nghiệp, hệ thống siêu thị, chợ đầu mối và kênh bán hàng trực tuyến, từng bước đưa cam Nam Đông vượt khỏi ranh giới địa phương để vươn tới các thị trường lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng...
Để cam Nam Đông thực sự trở thành thương hiệu mạnh, vẫn cần sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống. Từ cơ quan quản lý đến doanh nghiệp, người dân cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ trong xây dựng vùng nguyên liệu, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, phát triển hạ tầng bảo quản và kết nối chuỗi tiêu thụ bền vững.