Đóng

Thay đổi tư duy để phát triển ngành công nghiệp môi trường

Các đại biểu Quốc hội cho rằng, để bảo vệ môi trường bền vững thì cần thay đổi tư duy quản lý, coi chất thải là tài nguyên, thúc đẩy công nghiệp môi trường phát triển.

Biến chất thải thành nguồn lực cho phát triển

Phát biểu tại phiên thảo luận về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực, vào chiều 28/10 trong chương trình làm việc của Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Đại biểu Tạ Văn Hạ - đoàn TP. Đà Nẵng nhấn mạnh, sự cần thiết phải đổi mới tư duy trong xây dựng và thực thi pháp luật về môi trường.

Đại biểu Tạ Văn Hạ - đoàn TP. Đà Nẵng. Ảnh: QH

Đại biểu Tạ Văn Hạ nhấn mạnh: “Một trong những vấn đề cốt lõi hiện nay là hệ thống pháp luật và chính sách còn nặng về quản lý hành chính, chưa tạo được cơ chế khuyến khích để biến rác thải, nước thải, khí thải thành nguồn nguyên liệu thứ cấp có giá trị kinh tế. Chúng ta vẫn đang coi chất thải là gánh nặng phải xử lý, thay vì nhìn nhận đó là một loại tài nguyên có thể tái tạo và sinh lợi”.

Đại biểu phân tích, tại nhiều quốc gia phát triển, rác thải và nước thải được coi là cơ hội đầu tư và kinh doanh mới. Từ rác nhiều nước có thể sản xuất năng lượng; nước thải được xử lý thành nước sạch sinh hoạt với công nghệ hiện đại; khí thải được thu hồi carbon để tái sử dụng trong công nghiệp…. Đây chính là bản chất của kinh tế tuần hoàn và kinh tế xanh, gắn liền với mục tiêu phát thải ròng bằng 0 mà Việt Nam đã cam kết tại COP26.

Đại biểu Tạ Văn Hạ cảnh báo: Nếu chậm thay đổi, chi phí khắc phục hậu quả môi trường sẽ cao gấp nhiều lần so với chi phí đầu tư phòng ngừa. “Tăng trưởng kinh tế có thể phục hồi sau 5 hay 10 năm, nhưng thiệt hại môi trường có thể kéo dài hàng trăm năm, thậm chí phải đánh đổi cả một thế hệ” ông nói.

Chiều 28/10 Quốc hội tiếp tục thảo luận về báo cáo của Đoàn giám sát chuyên đề về môi trường. Ảnh: QH

Tại Việt Nam theo đại biểu, hiện nay chi phí xử lý chất thải vẫn chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước và doanh nghiệp, trong khi khung pháp lý chưa đủ hấp dẫn để thu hút nhà đầu tư tư nhân. Các mô hình tái chế, tái sử dụng còn nhỏ lẻ, chưa có cơ chế bảo hộ và khuyến khích đầu tư công nghệ mới.

Từ thực tiễn giám sát và làm việc với doanh nghiệp, đại biểu Tạ Văn Hạ cho biết, không chỉ cần vốn, doanh nghiệp còn cần cả cơ chế pháp lý rõ ràng, minh bạch và ổn định để yên tâm đầu tư vào lĩnh vực môi trường.

Chúng ta cần chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy khai thác tài nguyên thứ cấp, coi chất thải là đầu vào của sản xuất. Khi đó, bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm mà còn là cơ hội phát triển” - đại biểu Tạ Văn Hạ khẳng định.

Xử lý nước thải tại nguồn: Giải pháp khả thi và tiết kiệm

Đồng quan điểm trên, đại biểu Phạm Văn Thịnh - Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh cho rằng Việt Nam cần thay đổi cách tiếp cận trong xử lý nước thải và rác thải sinh hoạt, chuyển từ mô hình tập trung sang xử lý ngay tại nguồn.

Đại biểu Phạm Văn Thịnh - Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh. Ảnh: QH

Theo ông Thịnh, Bắc Ninh đã triển khai thí điểm công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt tại hộ gia đình, cho thấy hiệu quả rõ rệt cả về chi phí và chất lượng nước sau xử lý. “Chi phí biến đổi chỉ khoảng 100 đồng/m³, nhưng nước thải đầu ra đạt tiêu chuẩn cột A của nước mặt, hoàn toàn có thể xả trực tiếp ra môi trường mà không gây ô nhiễm”, đại biểu cho biết.

Ông dẫn chứng, tại Nhật Bản, quốc gia có tiêu chuẩn môi trường khắt khe, mỗi hộ gia đình, cơ sở kinh doanh hay dịch vụ đều phải xử lý nước thải đạt chuẩn cột A trước khi xả ra ngoài. Đại biểu cho rằng, Việt Nam hoàn toàn có thể học tập và nhân rộng mô hình này, giúp giảm gánh nặng đầu tư cho hệ thống xử lý tập trung và tạo bước đột phá trong quản lý nước thải sinh hoạt.

Nếu Quốc hội và các Ủy ban của Quốc hội trực tiếp đến Bắc Ninh, sẽ thấy rõ hiệu quả thực tế của công nghệ này – một hướng đi mới, bền vững và tiết kiệm cho công tác bảo vệ môi trường” ông Thịnh nhấn mạnh.

Về xử lý rác thải sinh hoạt, đại biểu Phạm Văn Thịnh cho biết Bắc Ninh không chỉ dừng ở các công nghệ truyền thống như đốt rác phát điện hay phân loại sinh học sản xuất phân compost, mà đã mạnh dạn áp dụng công nghệ phân hủy nhiệt trong hơn một năm qua.

Kết quả cho thấy đây là bước tiến lớn trong công nghệ môi trường, khi quá trình xử lý không phát thải, không tạo tro bay, không khí thải độc hại. Các sản phẩm thu hồi gồm khí tổng hợp (syngas), dầu sinh học và than sinh học, đều có thể tái sử dụng làm nhiên liệu hoặc nguyên liệu cho sản xuất, vừa bảo vệ môi trường, vừa tạo giá trị kinh tế.

Công nghệ này đã được nghiệm thu và thẩm định bởi các cơ quan khoa học, chứng minh tính khả thi và an toàn cao. “Nếu được nhân rộng, tôi tin rằng trong vòng 1-2 năm, Việt Nam hoàn toàn có thể giải quyết căn bản bài toán rác thải và nước thải sinh hoạt trên phạm vi toàn quốc” đại biểu khẳng định.

Ông kiến nghị Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành quan tâm kiểm nghiệm, đánh giá, hỗ trợ chính sách để nhân rộng các công nghệ tiên tiến như xử lý nước thải tại nguồn và phân hủy nhiệt rác thải.

Phát triển công nghiệp môi trường để tăng trưởng xanh

Ở góc nhìn khác, đại biểu Cầm Thị Mẫn - đoàn Thanh Hóa cho rằng, công tác xây dựng và hoàn thiện hạ tầng bảo vệ môi trường là một trong những trụ cột quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với mục tiêu phát triển bền vững và tạo ra môi trường sống lành mạnh cho nhân dân.

Đại biểu Cầm Thị Mẫn - đoàn Thanh Hóa. Ảnh: QH

Theo đại biểu, từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực, lĩnh vực hạ tầng môi trường đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Đến hết năm 2024, tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đạt 97,26% ở đô thị và 80,5% ở nông thôn. Một số công nghệ tiên tiến như đốt rác thu hồi năng lượng và đồng xử lý chất thải trong lò nung xi măng đã được ứng dụng, góp phần giảm tỷ lệ chôn lấp và hướng tới nền kinh tế tuần hoàn.

Tỷ lệ khu, cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung cũng đã tăng so với giai đoạn trước; nhiều địa phương đầu tư công nghệ tái chế, xử lý kết hợp thu hồi năng lượng, bước đầu hình thành hạ tầng môi trường xanh và thông minh.

Theo đại biểu, những kết quả này vẫn chưa tương xứng với yêu cầu phát triển. Hiện chỉ khoảng 18% nước thải đô thị được thu gom, xử lý; trong khi đó, tỷ lệ chôn lấp rác thải sinh hoạt vẫn chiếm phần lớn, gây ô nhiễm đất, nước và không khí.

Đáng lo ngại, mới chỉ 31,5% cụm công nghiệp và 16,6% làng nghề có hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn. Công nghệ sản xuất ở nhiều cơ sở còn lạc hậu, tiêu tốn năng lượng và tài nguyên. Cơ sở hạ tầng thu gom, phân loại, tái chế chất thải rắn còn thiếu đồng bộ, khiến việc triển khai chính sách phân loại rác tại nguồn chưa hiệu quả.

Đại biểu chỉ rõ nguyên nhân chủ quan là một số địa phương chưa thật sự quyết liệt trong đầu tư hạ tầng, quy hoạch thiếu đồng bộ, cơ chế xã hội hóa còn yếu, trong khi chế tài xử lý vi phạm chưa đủ sức răn đe. Ngoài ra, các chính sách khuyến khích đầu tư xanh chưa được triển khai hiệu quả, khiến ngành công nghiệp môi trường chậm hình thành và phát triển.

Để khắc phục những tồn tại, đại biểu Cầm Thị Mẫn kiến nghị Quốc hội nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường và các luật liên quan, đặc biệt là cơ chế đầu tư hạ tầng kỹ thuật trong bối cảnh thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp.

Bên cạnh đó, Chính phủ cần chỉ đạo hoàn thiện hệ thống quy chuẩn kỹ thuật, định mức, đơn giá thu gom và xử lý chất thải, nhằm thúc đẩy xã hội hóa đầu tư trong lĩnh vực môi trường.

Thu Hường