Đóng

Thủ công mỹ nghệ: Cánh cửa giảm nghèo từ hồn cốt bản làng

Từ sợi lanh, sợi mây, người dân vùng sâu vùng xa dệt nên hy vọng giữ hồn cốt bản làng và mở lối thoát nghèo bằng chính bàn tay truyền thống.

Khai thác giá trị văn hóa để thoát nghèo

Từ những khung cửi bên bếp lửa, những đôi tay chai sần giữa núi rừng Tây Bắc, miền Trung, Tây Nguyên…, những sản phẩm thủ công mỹ nghệ bản địa đã trở thành biểu tượng của sự tinh tế, của chiều sâu văn hóa và quan trọng nhất đang trở thành lối ra bền vững cho bài toán giảm nghèo vùng cao.

Việt Nam hiện có gần 14 triệu đồng bào dân tộc thiểu số, phần lớn sống dựa vào nông - lâm nghiệp tự cung tự cấp. Song bên trong đó là một kho tàng nghề thủ công truyền thống vô cùng phong phú: dệt thổ cẩm, đan lát, làm gốm, điêu khắc gỗ, thêu tay… Nếu biết tổ chức sản xuất đúng cách, những sản phẩm tưởng như đơn sơ ấy lại có khả năng mở ra sinh kế ổn định, gắn với du lịch cộng đồng, quà tặng lưu niệm và xuất khẩu.

Ông Hoàng A Páo, Đại diện HTX Danhar (Lâm Đồng). Ảnh: Ngọc Hoa

Tiêu biểu như HTX Danhar tại tỉnh Lâm Đồng, nơi ông Hoàng A Páo, đại diện HTX cùng 30 chị em người Mông đã hồi sinh nghề dệt lanh bằng cách cải tiến mẫu mã, chuẩn hóa quy trình sản xuất và chủ động kết nối thị trường. Từ chỗ chỉ bán dọc quốc lộ, sản phẩm của HTX nay đã góp mặt trong các hội chợ chuyên ngành, hiện diện tại nhiều chuỗi khách sạn lớn và bắt đầu thử nghiệm xuất khẩu sang thị trường nước ngoài. Mỗi người thợ không chỉ là lao động làm ra sản phẩm, mà còn là người gìn giữ bản sắc và viết tiếp tương lai bằng chính nghề cha ông để lại.

Cái khó nhất là giữ được động lực, nếu làm ra mà không bán được, bà con dễ nản lắm. Mình cần một hệ sinh thái: từ đào tạo, bao tiêu đến thương mại điện tử”, ông Páo chia sẻ.

Không chỉ giữ nghề, HTX Danhar còn là mô hình giảm nghèo thực chất khi giúp hàng chục hộ thoát khỏi danh sách hộ nghèo. Trước đây, nhiều gia đình sống lay lắt nhờ nương rẫy, thu nhập bấp bênh theo mùa, thì nay mỗi tháng chị em có việc làm đều đặn, thu nhập ổn định từ 3 - 5 triệu đồng, những tuần cao điểm có thể lên đến 7 triệu đồng. Nhiều hộ có điều kiện sửa lại nhà, cho con đi học đến nơi đến chốn.

Đặc biệt, không dừng ở sản xuất, HTX còn tổ chức các lớp đào tạo truyền nghề cho thanh niên và phụ nữ trẻ, giúp lớp kế cận yêu nghề, hiểu nghề và dám sống bằng nghề. Việc xây dựng bản sắc thành sản phẩm, sản phẩm thành sinh kế chính là chiến lược dài hơi, giúp HTX Danhar không chỉ làm ra hàng hóa mà còn làm ra niềm tin, khơi dậy khát vọng đổi đời bằng chính giá trị của bản làng.

Lối thoát nghèo từ những bàn tay thêu dệt

Không ít địa phương đã nhận ra rằng: giảm nghèo không chỉ là phát gạo, phát vốn, mà quan trọng hơn là phát triển tri thức, thông tin và phương thức làm ăn mới. Tại một số xã vùng sâu, vùng xa chính quyền đã tổ chức lớp tập huấn cho người dân học cách xử lý mây tre chống ẩm mốc, sử dụng màu nhuộm tự nhiên để tăng giá trị sản phẩm.

Đồng thời, phối hợp tổ chức lớp kỹ năng số cho phụ nữ dân tộc, giúp bà con biết livestream, xây dựng thương hiệu sản phẩm, từng bước chủ động trong tiếp cận thị trường. Những “lớp học giữa bản” này tuy nhỏ, nhưng chính là nơi khơi thông thông tin, thứ mà bao năm nay bà con vẫn bị thiếu hụt, dẫn tới làm ra thì tốt mà không biết bán ở đâu.

Không dừng lại ở việc khuyến khích giữ nghề, nhiều chính quyền địa phương đã chủ động vào cuộc để đưa thủ công mỹ nghệ trở thành sinh kế thực thụ. Từ việc hỗ trợ thành lập hợp tác xã, đăng ký nhãn hiệu tập thể, chuẩn hóa quy trình sản xuất đến thiết kế bao bì, mẫu mã, các cấp chính quyền đang từng bước chuyên nghiệp hóa sản phẩm thủ công của đồng bào.

Gian hàng thủ công mỹ nghệ như một cánh cửa mở ra thế giới của ký ức, của phong tục, của khát vọng vươn lên làm giàu mà vẫn giữ vẹn nguyên hồn cốt dân tộc. Ảnh: Ngọc Hoa

Tại một số tỉnh miền núi phía Bắc như Lai Châu, Tuyên Quang chính quyền còn kết nối các doanh nghiệp du lịch, khách sạn và đơn vị lữ hành để đưa sản phẩm thổ cẩm, mây tre vào chuỗi quà tặng, phục vụ khách quốc tế. Nhờ có đầu ra ổn định, thu nhập của nhiều nhóm phụ nữ dân tộc tăng gấp đôi, thậm chí có hộ thoát khỏi diện nghèo, có điều kiện tái đầu tư vào máy móc, mở rộng sản xuất và truyền nghề cho thế hệ trẻ.

Nếu nông nghiệp giúp giải quyết nhu cầu thiết yếu, thì thủ công mỹ nghệ mang lại giá trị tinh thần bởi nó gắn liền với ký ức cộng đồng, giữ người ở lại bản, giữ văn hóa cho đời sau. Song để ngành nghề này phát triển bền vững, rất cần sự vào cuộc đồng bộ của chính sách: từ cấp vốn, hỗ trợ nhà xưởng, kho bảo quản, đến việc kết nối doanh nghiệp tiêu thụ và mở rộng kênh thương mại điện tử.

Thực tế, một số địa phương đã thí điểm mô hình “Trung tâm sáng tạo thổ cẩm bản địa”, nơi trưng bày, hướng dẫn sản xuất, tổ chức du lịch trải nghiệm. Đây chính là con đường nâng cấp sản phẩm thủ công từ hàng hóa địa phương trở thành đại diện văn hóa quốc gia.

Giảm nghèo không phải là xóa nghèo tạm thời, mà là mở ra một con đường phát triển có gốc rễ. Và thủ công mỹ nghệ nếu được đầu tư đúng hướng chính là cây cầu gắn kết giữa quá khứ và hiện tại, giữa văn hóa và kinh tế, giữa bản làng và thị trường toàn cầu.

Những sản phẩm dệt, thêu, đan lát, mây tre, gốm thổ… tuy lặng lẽ về doanh số, nhưng lại mang theo câu chuyện của cộng đồng, của lịch sử và tinh thần dân tộc được chắt lọc qua từng thế hệ. Chúng không đơn thuần là hàng hóa, mà là lời chào đầy chân thành từ bản làng đến thị trường. Mỗi sản phẩm là một lát cắt của đời sống, một chứng tích của khả năng tự vươn lên bằng nghề cũ, bằng lòng tin và sự sáng tạo. Và chính vì thế, thủ công mỹ nghệ không chỉ xứng đáng được thương mại hóa, mà còn cần được bảo vệ như một di sản sinh kế.

 

Thiên Kim