Đóng

Thu hút vốn đầu tư vào năng lượng bền vững

Để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam cần huy động hàng chục tỷ USD đầu tư cho ngành năng lượng bền vững, đặc biệt từ khu vực tư nhân và quốc tế.

Bối cảnh và nhu cầu vốn cho năng lượng bền vững

Khi nhu cầu năng lượng gia tăng cùng áp lực cắt giảm phát thải khí nhà kính, Việt Nam buộc phải chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình năng lượng bền vững. Các nguồn năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió, thủy điện vừa và nhỏ, sinh khối đang trở thành trụ cột mới, không chỉ để ứng phó với biến đổi khí hậu mà còn nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và phát triển kinh tế xanh.

Theo ước tính của Bộ Công Thương, để nâng tỷ trọng năng lượng tái tạo lên 32% vào năm 2030 và 47% vào năm 2045 theo Quy hoạch Điện VIII, Việt Nam cần khoảng 50 - 60 tỷ USD vốn đầu tư trong giai đoạn 2021 - 2030. Trong khi đó, ngân sách nhà nước chỉ có thể đáp ứng một phần rất nhỏ, chủ yếu dành cho hạ tầng truyền tải và lưới điện. Điều này đòi hỏi phải mở rộng nguồn vốn từ khu vực tư nhân, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và các tổ chức tài chính quốc tế.

Năng lượng tái tạo trở thành trụ cột mới, không chỉ để ứng phó với biến đổi khí hậu mà còn nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và phát triển kinh tế xanh. Ảnh minh họa

Đáng chú ý, chi phí đầu tư cho hệ thống lưu trữ điện quy mô lớn đến năm 2030 dự kiến vượt 10 tỷ USD. Đây là lĩnh vực có rủi ro tài chính cao, đòi hỏi cơ chế chính sách linh hoạt và sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Nhà nước để tạo niềm tin cho nhà đầu tư. Hiện nay, nguồn vốn cho năng lượng bền vững chủ yếu đến từ bốn kênh: Ngân sách nhà nước, vốn của doanh nghiệp nhà nước như Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng quốc gia Việt Nam (Petrovietnam), khu vực tư nhân trong nước và vốn quốc tế thông qua FDI, ODA hay các quỹ tài chính xanh. Mỗi kênh đều có đóng góp nhưng cũng bộc lộ những hạn chế nhất định về quy mô, tính ổn định và khả năng huy động dài hạn.

Theo ThS. Nguyễn Thái Bình - Phó Giám đốc Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, trong giai đoạn 2018 - 2021, Việt Nam đã chứng kiến sự bùng nổ mạnh mẽ của điện mặt trời và điện gió. Tổng công suất điện mặt trời đạt hơn 16.500 MW vào cuối năm 2021, chiếm khoảng 25% tổng công suất hệ thống điện quốc gia. Điện gió cũng tăng gần 10 lần trong 5 năm, đạt gần 5.000 MW, đánh dấu bước tiến đáng kể trong quá trình chuyển dịch năng lượng.

Song song với sự phát triển đó, các công cụ tài chính xanh dần hình thành và lan tỏa. Một số ngân hàng trong nước đã triển khai tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh để huy động hàng trăm triệu USD cho các dự án năng lượng tái tạo. Các quỹ đầu tư quốc tế như Quỹ Khí hậu xanh (GCF), Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF), cùng các nguồn vốn ODA từ Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) hay JICA đã hỗ trợ đáng kể cho hạ tầng, nghiên cứu và tư vấn chính sách. Đặc biệt, mô hình điện mặt trời mái nhà phát triển mạnh mẽ, với hơn 100.000 hệ thống được lắp đặt trên cả nước, góp phần huy động hàng tỷ USD từ hộ gia đình và doanh nghiệp nhỏ.

Tuy nhiên, ThS. Nguyễn Thái Bình cho rằng, dòng vốn đầu tư vào năng lượng bền vững tại Việt Nam vẫn chưa thực sự ổn định và chưa tương xứng với tiềm năng. Rào cản lớn nhất nằm ở sự thiếu ổn định của chính sách. Sau khi cơ chế giá điện hỗ trợ (FiT) hết hiệu lực, việc chậm ban hành giá điện mới đã khiến hàng trăm dự án bị đình trệ, trong khi hợp đồng mua bán điện (PPA) chưa đủ hấp dẫn để thu hút các tổ chức tài chính quốc tế. Các doanh nghiệp trong nước cũng gặp khó khăn khi tiếp cận vốn dài hạn do lãi suất cao và thời hạn vay ngắn, trong khi các dự án năng lượng tái tạo cần thời gian từ 10 đến 15 năm để hoàn vốn.

“Một vấn đề nổi cộm là sự phát triển nhanh của năng lượng tái tạo chưa đi đôi với đầu tư hạ tầng truyền tải và lưới điện quốc gia. Nhiều khu vực như Ninh Thuận, Bình Thuận - nơi tập trung hàng nghìn MW điện mặt trời và điện gió thường xuyên xảy ra tình trạng quá tải lưới, khiến hàng loạt nhà máy phải cắt giảm công suất”, ThS. Nguyễn Thái Bình nhận định.

Bên cạnh đó, năng lực của doanh nghiệp nội còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm quản trị và phụ thuộc nhiều vào công nghệ nhập khẩu, khiến việc tiếp cận vốn quốc tế trở nên khó khăn hơn. Thêm vào đó, thị trường điện vẫn thiếu cạnh tranh khi Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) giữ vai trò độc quyền mua điện, trong khi giá bán lẻ thấp tạo sức ép lớn đối với các nhà phát triển dự án.

Giải pháp mở đường cho vốn đầu tư

Để khắc phục những hạn chế và thu hút dòng vốn bền vững cho năng lượng tái tạo, ThS. Nguyễn Thái Bình đã nêu lên nhiều phương pháp mà Việt Nam cần triển khai một loạt giải pháp đồng bộ. 

Trước hết, cần hoàn thiện khung pháp lý minh bạch, ổn định và có khả năng dự báo, đặc biệt trong các vấn đề liên quan đến đấu thầu điện, hợp đồng mua bán điện và cơ chế bảo đảm thanh toán. Cùng với đó, việc đổi mới cơ chế giá điện thông qua các hình thức đấu thầu, đấu giá công khai, cũng như phát triển hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPA) giữa nhà sản xuất và khách hàng công nghiệp sẽ giúp thị trường vận hành minh bạch và cạnh tranh hơn.

Các chính sách ưu đãi về thuế và đất đai cần được thiết kế để hỗ trợ mạnh mẽ cho những lĩnh vực mới như pin lưu trữ, hydrogen xanh hay điện gió ngoài khơi. Song song với đó, Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển thị trường tài chính xanh, khuyến khích phát hành trái phiếu xanh, mở rộng tín dụng xanh và xây dựng các quỹ bảo lãnh tín dụng để giảm chi phí vốn cho nhà đầu tư.

Việc thu hút vốn quốc tế cần gắn liền với yêu cầu chuyển giao công nghệ. Việt Nam có thể tận dụng cơ hội từ các sáng kiến toàn cầu như Đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP), đồng thời khuyến khích các liên doanh với tập đoàn quốc tế để nâng cao năng lực của doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, việc đầu tư hạ tầng truyền tải và hệ thống lưu trữ điện cần được ưu tiên, có thể triển khai theo hình thức đối tác công - tư (PPP) kết hợp với ứng dụng công nghệ lưới điện thông minh.

Nâng cao năng lực quản trị cho doanh nghiệp nội địa là nhiệm vụ không thể thiếu. Đào tạo chuyên sâu về quản trị dự án theo chuẩn quốc tế, phát triển công nghiệp phụ trợ trong sản xuất pin mặt trời, tuabin gió và pin lưu trữ sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam chủ động hơn trong chuỗi giá trị. Đồng thời, cần tiếp tục xã hội hóa đầu tư vào năng lượng sạch, khuyến khích mô hình điện mặt trời mái nhà, hợp tác xã năng lượng và các dự án cộng đồng để huy động sự tham gia rộng rãi của xã hội.

Thu hút vốn đầu tư vào năng lượng bền vững là nhiệm vụ chiến lược, gắn liền với mục tiêu giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng trong phát triển điện mặt trời, điện gió và xây dựng thị trường tài chính xanh, nhưng vẫn đối mặt với nhiều rào cản về chính sách, tài chính và hạ tầng.

“Trong giai đoạn tới, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, tạo môi trường đầu tư minh bạch, cạnh tranh, đồng thời khuyến khích sự tham gia mạnh mẽ của khu vực tư nhân và các tổ chức tài chính quốc tế. Đặc biệt, cần coi phát triển thị trường tài chính xanh, triển khai cơ chế đấu thầu điện minh bạch, khuyến khích hợp tác công - tư trong hạ tầng truyền tải và đẩy mạnh chuyển giao công nghệ là những giải pháp trọng tâm”, ThS. Nguyễn Thái Bình nhấn mạnh.

Năng lượng bền vững không chỉ là lĩnh vực đầu tư mang lại lợi ích kinh tế, mà còn là động lực thúc đẩy đổi mới công nghệ, tạo việc làm xanh, bảo vệ môi trường và nâng cao vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu. Để đạt được mục tiêu này, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và toàn xã hội, hướng tới một nền kinh tế năng lượng an toàn, hiện đại và bền vững.

Ngọc Hưng