Đóng

Thực thi EPR: 5 kiến nghị từ ngành đồ uống

Thực thi EPR hiệu quả, ngành đồ uống kiến nghị chi phí EPR cần được tính hợp lý, có lộ trình tái chế phù hợp, có chính sách hỗ trợ hạ tầng, công nghệ, ưu đãi doanh nghiệp

Hầu hết doanh nghiệp ngành đồ uống đã nắm rõ các quy định EPR

Chia sẻ tại Hội thảo “Thúc đẩy hoạt động tái chế bao bì đồ uống hiệu quả và bền vững tại Việt Nam” diễn ra chiều 23/9, bà Chu Thị Vân Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Bia – Rượu – Nước giải khát Việt Nam, cho biết, trong năm 2023, cơ quan chức năng đã tiến hành khảo sát nhanh để hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc triển khai Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) đối với ngành bao bì.

Toàn cảnh Tọa đàm. Ảnh: N.H

Kết quả khảo sát cho thấy hơn 60% doanh nghiệp trong ngành đồ uống mới tiếp cận và biết đến quy định EPR trong năm 2022. Tuy nhiên, hầu hết doanh nghiệp đều ủng hộ chính sách.

Bên cạnh đó, trên 80% doanh nghiệp cho biết gặp một số khó khăn trong quá trình triển khai, chủ yếu liên quan đến chi phí tuân thủ, việc tìm kiếm đối tác tái chế phù hợp và hạn chế về nhân lực. Nhiều doanh nghiệp nhỏ chưa có bộ phận chuyên trách thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến EPR và cần hướng dẫn cụ thể từ cơ quan nhà nước.

Khi các cơ sở pháp lý hoàn thiện và việc triển khai EPR bắt đầu từ năm 2024, khảo sát cho thấy ngành đồ uống tại Việt Nam sử dụng nhiều loại bao bì khác nhau, cụ thể, lon nhôm chiếm tỷ trọng lớn trong các nhà máy bia, chai thủy tinh vẫn phổ biến, bên cạnh chai nhựa PET và các loại màng nhựa.

Đến năm 2024–2025, hầu hết doanh nghiệp đã nắm rõ các quy định EPR và các thông tư hướng dẫn, đồng thời tham gia gần như đầy đủ các khóa tập huấn do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức, bao gồm cả các buổi trực tiếp dành cho hội viên Hiệp hội.

Về hình thức thực hiện nghĩa vụ EPR, khoảng trên 80% doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, lựa chọn hình thức đóng quỹ do hạn chế về nhân lực. Khoảng 20% doanh nghiệp áp dụng kết hợp giữa đóng quỹ và sáng kiến nội bộ, trong khi khoảng 10% ủy quyền tái chế cho các đơn vị chuyên nghiệp. Kết quả này cho thấy doanh nghiệp đã chủ động tham gia EPR, đồng thời thử nghiệm các mô hình tái chế phù hợp với năng lực và quy mô hoạt động của mình.

Cũng theo bà Chu Thị Vân Anh, ngay từ năm 2019, khi thành lập Liên minh Tái chế Bao bì Việt Nam (PRO Việt Nam), một số doanh nghiệp tiên phong đã tham gia và triển khai các sáng kiến tái chế. Trong năm 2024, một số nhà máy đã thí điểm tuần hoàn khoảng 850 tấn lon nhôm. Các chai thủy tinh trong các nhà máy sản xuất bia cũng đã được tái sử dụng. Các loại két nhựa và bao bì khác cũng đã được tái tuần hoàn, với tỷ lệ tái chế nhiều khi vượt quy định hiện hành theo EPR. Mô hình “từ lon nhôm đến lon nhôm” của Heineken cũng đã được thí điểm thành công.

5 kiến nghị từ Hiệp hội

Bên cạnh kết quả đạt được, theo bà Chu Thị Vân Anh, việc triển khai EPR các doanh nghiệp ngành đồ uống gặp một số vướng mắc. Khó khăn chủ yếu liên quan đến việc lựa chọn hình thức thực hiện EPR, đóng quỹ hoặc tự tổ chức tái chế, cũng như thiếu nhân lực và cơ sở vật chất hỗ trợ.

Với hình thức đóng quỹ hiện đang vận hành trên nền tảng điện tử, các doanh nghiệp bày tỏ một số quan ngại. Cụ thể, họ lo ngại rủi ro pháp lý do thiếu tương tác trực tiếp với cơ quan nhà nước; ví dụ khi nộp hồ sơ hoặc đóng quỹ, chưa nhận được xác nhận ngay về việc hoàn thành trách nhiệm, gây cảm giác chưa chắc chắn. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng quan tâm đến cơ chế giám sát các đơn vị nhận hỗ trợ từ Quỹ Bảo vệ môi trường, nhằm đảm bảo họ thực hiện đúng, minh bạch và hiệu quả, đáp ứng mục tiêu cải thiện môi trường.

Mô hình trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) và hạn chế tổng sản lượng nhựa là 2 nội dung được ngành tái chế và bao bì quan tâm liên quan tới quá trình đàm phán thỏa thuận nhựa toàn cầu. Ảnh: Greenpeace. 

Với hình thức tự tổ chức tái chế hoặc ủy quyền, các doanh nghiệp nhỏ gặp nhiều thách thức. Họ thiếu nguồn lực để xây dựng nhà máy tái chế, đặc biệt khi phải xử lý nhiều loại bao bì khác nhau. Bên cạnh đó, họ còn lo ngại rủi ro khi ủy quyền cho các đơn vị tái chế (như PRO).

Hiện nay, hệ thống thu gom và tái chế các loại bao bì như thủy tinh hay nhôm vẫn còn hạn chế và chi phí cao. Chưa có nhà máy tái chế nhôm từ lon sử dụng sang nhôm cuộn để quay vòng sản xuất, khiến việc triển khai tái chế toàn diện gặp khó khăn.

Về kiến nghị cụ thể đối với Nghị định EPR sắp tới, bà Chu Thị Vân Anh đề xuất, với các doanh nghiệp ngành đồ uống đã áp dụng bao bì tái chế trong sản xuất, chính sách cần hỗ trợ và thúc đẩy việc quay vòng bao bì nhựa tái chế, tạo động lực phát triển bền vững.

Khi doanh nghiệp đóng quỹ hoặc tự tổ chức tái chế, các chi phí liên quan cần được tính là chi phí hợp lý hợp lệ trong quá trình quyết toán, nhằm đảm bảo quyền lợi doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, cần xem xét tỉ lệ tái chế phù hợp với năng lực thực tế của Việt Nam và khả năng của các đơn vị thu gom, tái chế. Quỹ EPR nên dành một phần cho đầu tư hạ tầng và công nghệ, nâng cao hiệu quả thu gom và tái chế. Với doanh nghiệp vừa tham gia thu gom, tái chế vừa sử dụng bao bì tái chế nên được xem xét miễn trừ một phần trách nhiệm thu gom độc lập, khuyến khích tích hợp hoạt động trong chuỗi giá trị.

Cơ hội lớn cho tái chế bao bì, cần hoàn thiện chính sách EPR

Ở góc độ cơ quan quản lý, ông Hồ Kiên Trung, Phó Cục trưởng Cục Môi trường, nhận định ngành đồ uống hiện là một trong những ngành phát sinh lượng bao bì lớn nhất. Trong bối cảnh Việt Nam thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn và giảm thiểu rác thải nhựa, việc tái chế bao bì đồ uống trở nên đặc biệt quan trọng.

Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách pháp luật để quản lý chất thải. Luật Bảo vệ môi trường 2020 đánh dấu bước tiến quan trọng khi quy định rõ ràng và toàn diện về Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR). Để triển khai, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/2022/NĐ-CP và Nghị định số 05/2025/NĐ-CP; Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã ban hành Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT và Thông tư số 07/2025/TT-BTNMT, cơ bản hoàn thiện hành lang pháp lý cho việc thực thi EPR.

Trong 3 năm qua, dù mới ở giai đoạn triển khai, ngành đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tỷ lệ tái chế tăng mạnh, đặc biệt là một phần chất thải đã được xuất khẩu ra nước ngoài. Hoạt động xuất khẩu hiện chủ yếu tập trung vào bao bì nhựa, với giá trị kinh tế đáng kể, thậm chí cao hơn tiêu thụ trong nước mở ra tiềm năng lớn cho ngành tái chế bao bì.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều loại bao bì chưa được khai thác triệt để, như thủy tinh, hộp giấy nhiều lớp hay lon nhôm. Việc tái chế chai nhựa theo mô hình “từ chai ra chai” hiện chưa thực hiện trong nước, chủ yếu phải xuất khẩu sang Thái Lan hay Singapore, chịu thêm thuế nhập khẩu, làm giảm hiệu quả kinh tế. Do đó, cần có cơ chế, chính sách khuyến khích mạnh mẽ để phát triển tái chế ngay tại thị trường trong nước, tận dụng tối đa nguồn tài nguyên thứ cấp, giảm phụ thuộc vào xuất khẩu và gia tăng giá trị ngành bao bì, đồng thời góp phần vào kinh tế tuần hoàn.

Thời gian qua, không chỉ các doanh nghiệp trong nước mà nhiều doanh nghiệp nước ngoài cũng bắt đầu đầu tư vào thị trường Việt Nam. Nhận thức rõ điều này, Nhà nước đã đưa mục tiêu hình thành ngành công nghiệp tái chế vào các định hướng phát triển. 

Ngành tái chế bao bì Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn, nhưng chính sách EPR mới triển khai hơn 3 năm vẫn cần hoàn thiện. Bên cạnh đó, Luật Bảo vệ môi trường 2020 sẽ được sửa đổi, bổ sung các quy định về EPR để hoàn thiện khung pháp lý. Bộ cũng đã làm việc với Bộ Tài chính về thuế, phí môi trường đối với sản phẩm bao bì. Từ nay đến giữa năm sau, dự kiến Luật sửa đổi sẽ hoàn thiện các nội dung về tái chế sản phẩm và bao bì.

Cục sẽ tiếp tục lắng nghe ý kiến đóng góp của các hiệp hội, doanh nghiệp và chuyên gia, nhằm tiếp thu kinh nghiệm, tháo gỡ vướng mắc và hoàn thiện chính sách EPR, tạo nền tảng quan trọng để xây dựng ngành công nghiệp tái chế phát triển mạnh mẽ, bền vững và hội nhập quốc tế trong tương lai.

Kinh tế tuần hoàn là thách thức ngay cả với các doanh nghiệp có tiềm lực, bởi chi phí tuân thủ EPR không hề nhỏ. Sự tham gia và phản hồi từ doanh nghiệp, các chính sách sẽ được điều chỉnh nhằm tăng tính thuận tiện, minh bạch, đồng thời tạo nền tảng để ngành tái chế bao bì Việt Nam phát triển bền vững và hiệu quả.

Nguyễn Hạnh