Đóng

Tin Công Thương 6/10: Tín hiệu mới cho điện khí LNG

Ngày 6/10, báo chí đưa nhiều thông tin liên quan đến ngành Công Thương. Báo Công Thương xin điểm lại một số thông tin đáng chú ý.

Lĩnh vực xuất nhập khẩu

Báo daibieunhandan.vn đưa tin: "Xuất khẩu nông lâm thủy sản 9 tháng đạt 52,3 tỷ USD, tăng 14%"

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết, 9 tháng đầu năm 2025, ngành phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong và ngoài nước. Đặc biệt, thiên tai gây thiệt hại nặng nề. Chỉ riêng tháng 9, nước ta hứng chịu ba cơn bão lớn, trong đó có bão số 10 với sức tàn phá rất mạnh.

Trong bối cảnh đó, Chính phủ, đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ, đã chỉ đạo rất quyết liệt, kịp thời. Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng các địa phương cũng chủ động, linh hoạt trong điều hành, nhờ đó 9 tháng đầu năm ngành vẫn đạt được những kết quả rất đáng khích lệ.

Riêng tháng 9, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 6,35 tỷ USD, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm 2024. Tính chung 9 tháng, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt 52,31 tỷ USD, tăng 14%.

Trong cơ cấu xuất khẩu, nhóm nông sản đạt 28,51 tỷ USD, tăng 16,8%. Thủy sản đạt 8,12 tỷ USD (tăng 12,3%), lâm sản 13,41 tỷ USD (tăng 7,4%) và sản phẩm chăn nuôi 447,5 triệu USD (tăng 18,6%). Ngoài ra, nhóm đầu vào sản xuất đạt 1,82 tỷ USD, tăng tới 33,1%; muối đạt 8 triệu USD, tăng gần gấp đôi.

Một số mặt hàng nổi bật ghi dấu ấn trong 9 tháng qua. Cà phê tiếp tục là điểm sáng với 1,2 triệu tấn xuất khẩu, trị giá 6,98 tỷ USD, tăng 11,1% về lượng nhưng tăng tới 61,4% về giá trị. Giá cà phê xuất khẩu bình quân đạt 5.658 USD/tấn, cao hơn 45% so với cùng kỳ. Cao su đạt 1,3 triệu tấn với 2,32 tỷ USD, giữ nguyên sản lượng nhưng tăng 10,8% về giá trị nhờ giá xuất khẩu bình quân tăng 10,9%.

Gạo một trong những mặt hàng chủ lực có diễn biến trái chiều. Khối lượng xuất khẩu 9 tháng đạt 7 triệu tấn, gần như không đổi so với cùng kỳ, nhưng giá trị giảm 18,5% xuống còn 3,55 tỷ USD. Nguyên nhân chính là giá xuất khẩu bình quân giảm 18,6%, còn khoảng 509 USD/tấn.

Ngược lại, rau quả xuất khẩu đạt 6,22 tỷ USD, tăng 10,3%; hạt điều đạt 552 nghìn tấn và 3,75 tỷ USD, tăng gần 19% về giá trị. Hạt tiêu đạt 188 nghìn tấn, trị giá 1,27 tỷ USD – sản lượng giảm 6,3% nhưng giá trị tăng gần 29% do giá xuất khẩu cải thiện.

Xét theo vùng lãnh thổ, châu Á là thị trường xuất khẩu lớn nhất với thị phần chiếm 43,9%. Hai thị trường lớn tiếp theo là châu Mỹ và châu Âu với thị phần lần lượt là 23% và 14,2%.

Xét theo thị trường chi tiết, Hoa Kỳ với thị phần 20,6%, Trung Quốc 20% và Nhật Bản 7,1% là 3 thị trường xuất khẩu lớn nhất. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản 9 tháng sang Hoa Kỳ tăng 9%, Trung Quốc tăng 5,9%, và Nhật Bản tăng 23,9%.

Tôm và cá tra kéo xuất khẩu thủy sản trong 9 tháng vượt 8,3 tỉ đô la. Ảnh: TTXVN.

Tạp chí thesaigontimes.vn đưa tin: "Tôm và cá tra kéo xuất khẩu thủy sản 9 tháng vượt 8,3 tỷ đô la Mỹ"

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, kim ngạch xuất khẩu thủy sản trong tháng 9 đạt gần 991 triệu đô la, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung 9 tháng, xuất khẩu thủy sản đã lên tới 8,33 tỷ đô la, tăng 15,5%, đánh dấu sự phục hồi mạnh mẽ sau giai đoạn trầm lắng.

Trong đó, tôm tiếp tục giữ vai trò chủ lực, với kim ngạch 9 tháng đạt hơn 3,38 tỷ đô la, tăng 20,3%, nhờ nhu cầu ổn định từ Mỹ, Nhật Bản, EU và sự gia tăng đơn hàng tại các thị trường châu Á.

Cá tra cũng giữ vững đà tăng và mang về hơn 1,6 tỷ đô la, tăng gần 10%. Sự hồi phục nhu cầu tại Trung Quốc, Mỹ và một số nước Trung Đông giúp củng cố vị thế của cá tra Việt Nam trên thị trường thế giới.

Bên cạnh tôm và cá tra, các sản phẩm như cá biển, mực và bạch tuộc cũng tăng trưởng mạnh. Sau 9 tháng, xuất khẩu cá biển đạt 1,61 tỷ đô la (tăng 18,5%), mực - bạch tuộc gần 550 triệu đô la (tăng 18,7%), còn nhuyễn thể có vỏ tăng hơn 30%, đạt 192 triệu đô la, riêng cá ngừ giảm nhẹ xuống 705 triệu đô la.

Trung Quốc và Hồng Kông (Trung Quốc) tiếp tục là thị trường lớn nhất của thủy sản Việt Nam, với kim ngạch 9 tháng đạt 1,76 tỷ đô la, tăng 32,1%.

Nhật Bản và EU duy trì đà tăng ổn định, lần lượt đạt 1,27 tỷ đô la và 885 triệu đô la. Xuất khẩu sang Hàn Quốc đạt 645 triệu đô la Mỹ, trong khi xuất sang ASEAN và Trung Đông mang về lần lượt 536 triệu đô la và gần 295 triệu đô la.

Lĩnh vực năng lượng

Báo baodautu.vn đưa tin: "Tín hiệu mới cho điện khí LNG"

Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (PV Power), thành viên Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) vừa cho biết, Nhà máy điện khí LNG Nhơn Trạch 3 dự kiến sẽ phát điện vào tháng 11/2025. Theo kế hoạch, trong năm 2025, hai nhà máy Nhơn Trạch 3 và 4 với tổng công suất 1.624 MW sẽ phát khoảng 355 triệu kWh. Tuy nhiên, con số thực tế nhiều hay ít hơn sẽ chỉ được xác định khi kết thúc năm.

Dự án Nhơn Trạch 3 và 4 được cấp chủ trương đầu tư từ tháng 2/2019, đến nay đang bước vào giai đoạn hoàn thiện cuối cùng. Như vậy, hai dự án này mất khoảng 6 năm để về đích. Đây cũng là những nhà máy điện đầu tiên tại Việt Nam được đầu tư mới hoàn toàn để sử dụng khí LNG nhập khẩu làm nhiên liệu đầu vào.

Nhà máy điện Nhơn Trạch 3 và 4.

Sau Nhơn Trạch 3 và 4, nhiều dự án điện khí LNG khác đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Tuy nhiên, mối quan tâm lớn nhất hiện nay của ngành điện đang hướng về các dự án LNG do EVN và Tập đoàn VinGroup triển khai.

Trong đó, Dự án điện khí LNG Quảng Trạch II (công suất 1.500 MW) của EVN đã bước vào giai đoạn phát hành hồ sơ mời thầu EPC gói số 08 - gói thầu then chốt, quyết định tiến độ và thời điểm vận hành dự án.

Theo kế hoạch, Quảng Trạch II sẽ khởi công vào tháng 12/2025, đưa tổ máy số 1 vào vận hành thương mại trong quý IV/2028, tiếp đó tổ máy số 2 vào quý I/2029 và hoàn thành toàn bộ dự án trong năm 2030.

Bên cạnh Quảng Trạch II, EVN cũng đã chính thức đề nghị UBND tỉnh Quảng Trị chấp thuận chủ trương đầu tư Dự án nhiệt điện LNG Quảng Trạch III, có quy mô 1.500 MW.

Là chủ đầu tư trong lĩnh vực điện, EVN dĩ nhiên có nhiều thuận lợi so với các doanh nghiệp khác. Tuy vậy, hoạt động sản xuất - kinh doanh điện của EVN vẫn chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan chức năng, điển hình là việc kiểm tra giá thành sản xuất điện hằng năm.

Báo laodong.vn có bài: "Cần thêm động lực để doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia tiết kiệm năng lượng và hiệu quả"

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt và chi phí năng lượng leo thang, tiết kiệm năng lượng không còn là lựa chọn mà trở thành yêu cầu sống còn của nền kinh tế. Đặc biệt với nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) - vốn chiếm tới hơn 97% tổng số doanh nghiệp Việt Nam việc tham gia vào các giải pháp tiết kiệm năng lượng không chỉ giúp giảm chi phí vận hành mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh trong một thị trường ngày càng ưu tiên sản phẩm xanh, sạch, bền vững. Tuy nhiên, con đường này còn đầy những trở ngại cần tháo gỡ.

Tuy nhiên, trên thực tế, phần lớn DNVVN vẫn khá dè dặt trong đầu tư công nghệ tiết kiệm năng lượng. Mặc dù thừa nhận lợi ích lâu dài, họ phải đối mặt với nhiều rào cản: Chi phí đổi mới công nghệ cao, dây chuyền sản xuất cũ kỹ tiêu hao năng lượng, thiếu đội ngũ kỹ thuật chuyên sâu, cùng với việc thiếu khung pháp lý minh bạch và cơ chế hỗ trợ cụ thể.

Theo ông Nguyễn Vân - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ Hà Nội (HANSIBA), nhiều doanh nghiệp thành viên phải chi trả hàng tỷ đồng tiền điện mỗi tháng. Họ rất quan tâm đến chính sách tiết kiệm năng lượng nhưng thường gặp bốn khó khăn chính: Thay đổi hành vi sử dụng năng lượng chưa đồng bộ; chi phí đầu tư ban đầu quá lớn; nguồn nhân lực hạn chế và cơ chế chính sách vẫn trong quá trình hoàn thiện.

Chi phí đầu tư ban đầu chính là rào cản lớn nhất. Một dây chuyền sản xuất tiết kiệm năng lượng có thể giúp giảm 20 - 30% chi phí vận hành, nhưng để triển khai cần vốn đầu tư hàng chục, thậm chí hàng trăm tỉ đồng. Với DNVVN, điều này vượt quá khả năng tự lực.

Lĩnh vực thị trường trong nước

Báo vov.vn đưa tin:"Đưa nông, lâm, thủy sản lên sàn tại Trung tâm tài chính quốc tế"

TP. Hồ Chí Minh đang xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế theo Nghị quyết 222/2025/QH15, mở ra cơ hội lớn để Việt Nam thu hút dòng vốn toàn cầu. Nhiều chuyên gia cho rằng, cần mở rộng phạm vi sang các lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế vượt trội, như nông sản, lâm sản, thủy sản, cùng với hàng thủ công mỹ nghệ, da giày và cả tài sản số.

Bổ sung này không chỉ giúp đa dạng hóa thị trường giao dịch, mà còn trực tiếp gắn với những ngành xuất khẩu chủ lực mang về hàng chục tỷ USD mỗi năm.

TS. Lê Nguyễn Gia Thiện - Phó Trưởng khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật (Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh) cho rằng, việc đưa nông, lâm, thủy sản vào danh mục giao dịch là hết sức cần thiết.

Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả, cần sớm ban hành khung pháp lý chi tiết, làm rõ cơ chế giao dịch cho từng loại hàng hóa và tài sản.

Việt Nam có thể tham khảo mô hình sàn hàng hóa của Singapore, nơi không chỉ dừng ở mua bán trực tiếp mà còn áp dụng công cụ phái sinh như hợp đồng tương lai, quyền chọn mua - bán.

Ông Nguyễn Đình Tùng - Phó Chủ tịch Hiệp hội rau quả Việt Nam (Vinafruit) - Tổng Giám đốc Công ty Vina T&T Group cho rằng, điều kiện tiên quyết là cần có hệ thổng dữ liệu minh bạch chuẩn quốc tế, chuẩn hóa sản phẩm theo GlobalGAP, ESG hay Carbon footprint.

Tạp chí doanhnhanvn.vn đăng tải: "Doanh thu bán lẻ, dịch vụ đạt hơn 5 triệu tỷ đồng, tăng 9,5% trong 9 tháng đầu năm"

Theo báo cáo Cục Thống kê, Bộ Tài chính, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành tháng 9 ước đạt 598,7 nghìn tỷ đồng, tăng 2,0% so với tháng trước và tăng 11,3% so với cùng kỳ năm trước.

Trong đó, doanh thu nhóm hàng may mặc tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước; lương thực, thực phẩm tăng 13,8%; vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 11,4%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 10,0%; dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 15,0% và du lịch lữ hành tăng 19,7%.

“Nhu cầu tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ, du lịch trong nước tăng, đặc biệt trong các sự kiện kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc, cùng với sự gia tăng mạnh mẽ của khách quốc tế đến Việt Nam đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng của ngành thương mại dịch vụ”, Cục Thống kê lý giải.

Trong quý III, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 1.759,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,6% so với quý trước và tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 9 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 5.176,0 nghìn tỷ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024 tăng 8,8%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,2% (cùng kỳ năm 2024 tăng 5,8%).

Báo Công Thương