Các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đang mở ra cánh cửa lớn cho thương mại Việt Nam, nhưng cũng siết chặt quy tắc xuất xứ hơn bao giờ hết. Minh bạch hóa và số hóa chứng nhận xuất xứ không chỉ là yêu cầu kỹ thuật, mà là chìa khóa để hàng Việt vươn xa, khẳng định năng lực trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Để hiểu rõ hơn phóng viên Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Minh Phong về vấn đề này.
Doanh nghiệp Việt trước yêu cầu về xuất xứ hàng hóa
- Thưa ông, trong bối cảnh Việt Nam tham gia nhiều FTA với các quy định về xuất xứ hàng hóa ngày càng chặt chẽ, ông đánh giá thế nào về những khó khăn mà doanh nghiệp Việt đang gặp phải trong việc chứng nhận xuất xứ khi xuất khẩu sang các thị trường lớn như EU, Mỹ hay Nhật Bản?
TS. Nguyễn Minh Phong: Trước hết, việc xác nhận, thẩm tra và khẳng định xuất xứ hàng hóa là yêu cầu rất quan trọng của văn minh thương mại và là điều kiện tiên quyết khi tham gia hội nhập quốc tế. Một doanh nghiệp nếu không có chứng nhận xuất xứ, chẳng khác nào một người ra nước ngoài mà không có hộ chiếu sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí không thể “xuất cảnh” hay “nhập cảnh” vào thị trường nước khác.
Chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Minh Phong. Ảnh: Thanh Tuấn
Những khó khăn mà doanh nghiệp Việt Nam đang gặp phải xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về khách quan, yêu cầu của các nước đối tác ngày càng cao, chặt chẽ và thường xuyên thay đổi, đòi hỏi mức độ chi tiết mà đôi khi Việt Nam chưa có quy chuẩn tương ứng. Để đáp ứng được, doanh nghiệp phải thường xuyên cập nhật thông tin, chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng để đáp ứng kịp thời.
Một khó khăn khác là phần lớn doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn phụ thuộc khá lớn vào chuỗi cung ứng quốc tế, đặc biệt là các yếu tố có tính kinh tế cao như nguyên vật liệu đầu vào, công nghệ, linh kiện... Trong khi đó, Việt Nam chưa có hệ thống tiêu chí rõ ràng để định danh thế nào là “sản xuất tại Việt Nam” hay “hàng hóa Việt Nam”. Ngay cả giữa các quốc gia, quy định này cũng không thống nhất. Vì vậy, việc tự khai báo hàng hóa đạt xuất xứ Việt Nam là điều không dễ dàng.
Các thị trường lớn như Mỹ, EU hay Nhật Bản thường cho phép doanh nghiệp tự khai báo xuất xứ và tự chịu trách nhiệm. Nếu sau quá trình hậu kiểm phát hiện sai phạm, doanh nghiệp sẽ bị phạt rất nặng, thậm chí bị kiện hoặc bị loại khỏi thị trường. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa chuẩn bị kỹ, coi nhẹ khâu này nên dễ gặp rủi ro lớn.
Ngoài ra, xác minh nguồn gốc nguyên liệu nhập khẩu cũng là vấn đề nan giải. Gian lận xuất xứ và thương mại xuyên biên giới là hiện tượng khá phổ biến, không chỉ với hàng Việt xuất đi mà còn với hàng nhập vào Việt Nam. Nhiều trường hợp hàng hóa nhập từ nước A nhưng lại được ghi là của nước B hoặc nước thứ ba, thứ tư... dẫn đến việc xác nhận sai, ảnh hưởng đến uy tín và quyền lợi của doanh nghiệp khi xin ưu đãi thuế quan từ các hiệp định.
Cuối cùng, bộ máy tổ chức cấp và xác nhận xuất xứ hàng hóa của chúng ta hiện nay vẫn chưa thật rõ ràng. Có bao nhiêu đơn vị được quyền cấp C/O, mỗi đơn vị được phân cấp bao nhiêu nhóm sản phẩm, một sản phẩm có thể được cấp bởi bao nhiêu cơ quan tất cả cần được minh định rõ. Đồng thời, quy trình, giá cả và tiện ích cung cấp dịch vụ cấp C/O cần được hoàn thiện, số hóa và công khai minh bạch hơn để tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp.
Chuẩn hóa dữ liệu xuất xứ - nền tảng hội nhập bền vững
- Việc khai báo và chứng nhận xuất xứ hiện nay được xem là phức tạp, tốn thời gian và dễ sai sót. Theo ông, đâu là những điểm yếu phổ biến nhất khiến doanh nghiệp Việt dễ bị truy xuất hoặc bị bác hồ sơ khi làm thủ tục?
TS. Nguyễn Minh Phong: Có 2 điểm yếu nổi bật. Thứ nhất là nguồn nguyên liệu và chứng từ nhập khẩu. Doanh nghiệp phải chứng minh được tỷ lệ phần trăm nguyên liệu nhập từ nước nào, và bao nhiêu giá trị được tạo ra tại Việt Nam, đây là yếu tố then chốt để xác định tỷ lệ giá trị gia tăng nội địa.
Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp hiện vẫn quản lý chuỗi cung ứng và hồ sơ chứng từ một cách thủ công, rời rạc, dẫn đến thiếu minh bạch, không thống nhất giữa các khâu. Chỉ cần sai lệch nhỏ trong việc kê khai mã, chứng từ vận chuyển hoặc hóa đơn nhập khẩu cũng đủ khiến hồ sơ bị nghi ngờ và bị loại.
Chuẩn hóa dữ liệu truy xuất nguồn gốc để bảo vệ người tiêu dùng, đồng thời là chìa khóa giúp hàng Việt khẳng định vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Ảnh minh họa
Thứ hai là chứng minh năng lực sản xuất thực tế. Các cơ quan nước ngoài không chỉ xem xét giấy tờ, mà còn có thể tiến hành hậu kiểm tại chỗ, kiểm tra cơ sở hạ tầng, dây chuyền và quy trình sản xuất của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp chỉ dừng ở khâu lắp ráp, thuê gia công rải rác ở nhiều địa điểm khác nhau, hoặc chưa có hệ thống quản trị truy xuất đồng bộ, thì rất dễ bị nghi ngờ gia công trá hình. Khi đó, chỉ một khâu thiếu minh bạch trong toàn chuỗi cũng khiến hàng hóa mất cơ hội được hưởng ưu đãi thuế quan theo các hiệp định FTA.
Vấn đề nằm ở chỗ, nhiều doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vẫn chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của minh chứng xuất xứ. Họ coi đây như thủ tục hành chính, chứ chưa xem đó là một phần của chiến lược hội nhập và bảo vệ thương hiệu quốc gia. Trong khi ở các thị trường phát triển, việc quản lý xuất xứ đã gắn chặt với số hóa chuỗi cung ứng, quản trị dữ liệu và kiểm toán độc lập. Nếu không thay đổi tư duy và đầu tư đúng mức, chúng ta sẽ mãi ở thế bị động, thậm chí bị gạt ra bên lề trong các chuỗi cung ứng giá trị cao.
- Để tận dụng được tối đa các ưu đãi thuế quan từ các hiệp định FTA, theo ông, Nhà nước cần hỗ trợ doanh nghiệp như thế nào, chẳng hạn trong việc hướng dẫn, số hóa quy trình chứng nhận hay kết nối dữ liệu liên thông?
TS. Nguyễn Minh Phong: Đây là yêu cầu cấp thiết và cũng là nguyện vọng của cộng đồng doanh nghiệp. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, đặc biệt khi chúng ta đặt mục tiêu tăng trưởng hai con số, gia tăng mạnh xuất nhập khẩu hàng năm, việc xây dựng và số hóa hệ thống chứng nhận xuất xứ liên thông là nhiệm vụ bắt buộc.
Hiện các bộ ngành như Bộ Công Thương, Bộ Công an cùng nhiều cơ quan liên quan đang phối hợp chặt chẽ để hoàn thiện hệ thống này. Tôi tin rằng, với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, hệ thống xác nhận, thẩm định, cấp chứng nhận xuất xứ hàng hóa sẽ sớm được tích hợp, minh bạch, đơn giản và thuận tiện hơn, giúp doanh nghiệp giảm chi phí, rút ngắn thời gian và nâng cao khả năng tiếp cận thị trường quốc tế ngay trong những tháng tới.
Tuy nhiên, để hệ thống này vận hành hiệu quả, Nhà nước cần song song triển khai ba nhóm giải pháp trọng tâm.
Một là, chuẩn hóa quy trình và cơ sở dữ liệu quốc gia về xuất xứ hàng hóa, bảo đảm mọi chứng nhận, thẩm tra đều được lưu trữ và truy xuất trên nền tảng số thống nhất, tránh chồng chéo, trùng lặp giữa các cơ quan.
Hai là, nâng cao năng lực và nhận thức của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thông qua các chương trình đào tạo, hướng dẫn trực tuyến, hỗ trợ kỹ thuật để họ nắm chắc quy định và thao tác đúng quy trình số hóa.
Ba là, xây dựng cơ chế phối hợp liên thông quốc tế, kết nối dữ liệu xuất xứ của Việt Nam với các đối tác FTA lớn để tăng độ tin cậy và rút ngắn khâu kiểm tra hậu kiểm tại hải quan nước nhập khẩu.
Về lâu dài, cần xem việc số hóa và liên thông dữ liệu xuất xứ không chỉ là nhiệm vụ hành chính, mà là một trụ cột quan trọng trong chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Khi hệ thống này hoàn thiện, không chỉ doanh nghiệp được lợi, mà uy tín của hàng Việt Nam cũng được củng cố mạnh mẽ trên thị trường toàn cầu.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Trong nhiều năm qua, thị trường Việt Nam luôn phải đối mặt với vấn nạn hàng hóa không rõ nguồn gốc, hàng kém chất lượng, hàng giả mạo xuất xứ. Những sản phẩm này len lỏi từ chợ truyền thống, cửa hàng tiện lợi đến siêu thị và các sàn thương mại điện tử, gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp chân chính và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi người tiêu dùng.
Trước tình hình đó, Chính phủ đã liên tục ban hành các văn bản quan trọng để tăng cường công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại. Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 17/5/2025 và Công điện số 72/CĐ-TTg ngày 24/5/2025, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương triển khai đồng bộ các biện pháp ngăn chặn và xử lý vi phạm. Triển khai chỉ đạo này, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 1398/QĐ-BCT ngày 20/5/2025 về kế hoạch cao điểm giám sát, kiểm tra, xử lý các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại.