Đóng

Khởi đầu “vùng trũng” đến cường quốc xuất khẩu: Hành trình kỳ diệu

Sau gần 4 thập kỷ đổi mới, Việt Nam đã vươn lên nhóm 20 quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới, với nền công nghiệp và thương mại ngày càng năng động.

TS Lê Quốc Phương - nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại (Bộ Công Thương) - đã có cuộc trao đổi với phóng viên Báo Công Thương xung quanh vấn đề này.

Từ khủng hoảng đến hội nhập: Hành trình bứt phá của kinh tế Việt Nam

- Nhìn lại 80 năm xây dựng đất nước và gần 40 năm đổi mới, đâu là những bước ngoặt lớn đưa Việt Nam từ hội nhập quốc tế đến phát triển công nghiệp chế biến – chế tạo và mở rộng thị trường trong nước, thưa ông?

TS Lê Quốc Phương: Trước công cuộc Đổi mới, nền kinh tế Việt Nam mang nặng đặc trưng của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Công nghiệp trì trệ, thương mại trong nước nghèo nàn, quốc tế gần như bế tắc.

Ảnh Minh họa: Cấn Dũng

Trong bối cảnh đó, Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đưa ra quyết định mang tính lịch sử: Chuyển đổi từ mô hình quản lý tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa, nhiều thành phần.

Trên ‘mặt trận’ thương mại, Việt Nam bắt đầu mở cửa, từng bước hội nhập với thế giới. Từ việc gia nhập Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), đến trở thành thành viên ASEAN (1995), tham gia Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC, 1998), và đặc biệt là Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO, 2007), đất nước đã khẳng định vị thế trong hệ thống kinh tế toàn cầu. Đến nay, Việt Nam đã tham gia 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương, trở thành một trong những quốc gia hội nhập sâu rộng nhất khu vực.

Sự đổi mới này đã tạo ra bước ngoặt lớn về quy mô và sức mạnh kinh tế. Nếu năm 1986, GDP chỉ đạt 4,8 tỷ USD, thì đến năm 2024 đã tăng gần 100 lần, chạm mốc 480 tỷ USD (theo số liệu Ngân hàng Thế giới); từ vị trí gần cuối, Việt Nam đã vươn lên đứng thứ 31 thế giới về GDP; đồng thời vào nhóm 20 quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới.

Đổi mới cũng thúc đẩy công nghiệp trỗi dậy, hình thành những ngành mũi nhọn, tạo nền tảng cho công nghiệp hóa. Từ khai thác, chế biến dầu khí phụ thuộc vào liên doanh Vietsovpetro, Việt Nam đã làm chủ công nghệ với các nhà máy lọc dầu như Dung Quất. Ngành điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin tăng trưởng nhanh, đưa Việt Nam trở thành điểm đến sản xuất linh kiện, thiết bị điện tử lớn của khu vực. Dệt may, da giày vươn lên top xuất khẩu toàn cầu, trong khi luyện kim, sắt thép, xi măng, cơ khí – chế tạo tạo ra trụ cột vững chắc cho phát triển lâu dài.

Nếu như những năm đầu đổi mới, dầu thô chiếm tới 30% xuất khẩu, thì đến năm 2024, tỷ trọng này chỉ còn khoảng 2,5%. Ngược lại, công nghiệp chế biến, chế tạo vươn lên mạnh mẽ, chiếm tới 25% GDP và 91% kim ngạch xuất khẩu, khẳng định vai trò động lực chính cho tăng trưởng.

Cùng với thương mại quốc tế, thương mại nội địa cũng có sự “lột xác”. Trước năm 1986, hàng hóa khan hiếm, mọi nhu yếu phẩm phải phân phối bằng tem phiếu. Ngày nay, hệ thống phân phối phát triển mạnh, từ chợ truyền thống đến siêu thị, trung tâm thương mại và thương mại điện tử, tạo nên thị trường đa dạng, hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân, đồng thời trở thành động lực quan trọng của tăng trưởng….

Chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh và đón đầu xu hướng kinh tế toàn cầu

- Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu ngày càng sâu rộng, ông có khuyến nghị gì cho các doanh nghiệp để tận dụng cơ hội cũng như vượt qua các rào cản thương mại ngày càng khốc liệt, thưa ông?

TS Lê Quốc Phương: Với 17 FTA đã ký kết cùng khoảng 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt Nam nằm trong nhóm những quốc gia hội nhập sâu rộng nhất ASEAN. Các FTA mở ra cơ hội lớn cho xuất khẩu và nâng cao vị thế kinh tế, nhưng thực tế chỉ 30% doanh nghiệp tận dụng hiệu quả, còn 70% khai thác chưa đầy đủ hoặc bỏ ngỏ.

TS Lê Quốc Phương - nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại (Bộ Công Thương). Ảnh: N.H

Để khai thác tối đa lợi ích từ FTA, doanh nghiệp cần tập trung vào bốn trụ cột gồm: Nâng cao năng lực cạnh tranh để hàng Việt đủ sức cạnh tranh với hàng nhập khẩu và mở rộng sang thị trường quốc tế; cải thiện chất lượng, tối ưu chi phí, sản phẩm phải đạt chuẩn cao đồng thời giá hợp lý; gia tăng giá trị sản phẩm, đầu tư chế biến sâu, thiết kế, đổi mới sáng tạo và xây dựng thương hiệu thay vì chỉ gia công đơn thuần; tuân thủ quy định của FTA. Đây là con đường khó nhưng tất yếu để doanh nghiệp Việt bứt phá.

Nhà nước cần tiếp tục đồng hành qua cải thiện môi trường kinh doanh, đào tạo nhân lực, cung cấp thông tin và kết nối đối tác quốc tế. Tuy nhiên, chính sách chỉ thực sự hiệu quả khi doanh nghiệp chủ động. FTA là “tấm hộ chiếu” để hàng Việt vươn xa, nhưng để đi được đường dài, doanh nghiệp phải tự đứng vững bằng nội lực và tư duy hội nhập.

Nhìn lại chặng đường 80 năm phát triển của đất nước, đồng thời hướng tới cột mốc 100 năm thành lập nước vào năm 2045, chúng ta có thể kỳ vọng điều gì trong tương lai, thưa ông?

TS Lê Quốc Phương: Việt Nam đã xác định mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045. Đây không chỉ là một tầm nhìn lớn mà còn là khát vọng chính đáng của dân tộc. Chúng ta có nhiều tiền đề quan trọng để hiện thực hóa mục tiêu này: Nền kinh tế ngày càng vững mạnh, kim ngạch xuất nhập khẩu đứng trong nhóm dẫn đầu khu vực, công nghiệp trên đà phát triển và vị thế ngày càng rõ nét trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Tuy nhiên, chặng đường phía trước còn không ít thách thức. Để đạt được mục tiêu đặt ra, chúng ta cần khắc phục những hạn chế đã được chỉ ra, trong đó thay đổi căn bản mô hình tăng trưởng theo quy mô sang tăng trưởng dựa trên chất lượng và hiệu quả là điều kiện tiên quyết. Đây không chỉ là yêu cầu chung của nền kinh tế, mà còn đặt ra cho từng ngành, từng lĩnh vực.

Để đạt được điều đó, cần tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm: thúc đẩy chuyển đổi số và chuyển đổi xanh; cải cách thể chế mạnh mẽ, xây dựng môi trường kinh doanh minh bạch, thuận lợi; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; phát triển hạ tầng hiện đại, đặc biệt là hạ tầng số, logistics và kết nối vùng.

Xin cám ơn ông!

Việt Nam có đủ tiềm lực và cơ hội, nhưng chỉ khi biết nắm bắt, lập kế hoạch chiến lược và quyết tâm thực hiện, đất nước mới thực sự bước vào kỷ nguyên phát triển thịnh vượng.

Nguyễn Hạnh