Đóng

Viện Công nghiệp Thực phẩm tập trung công nghệ lõi, đáp ứng nhu cầu thị trường

Viện Công nghiệp Thực phẩm xây dựng định hướng tập trung vào các công nghệ lõi có nhu cầu thị trường rõ, gắn với lợi thế nguyên liệu trong nước, có khả năng nội địa hóa.

Thế mạnh trong nghiên cứu enzyme tái tổ hợp

Trong giai đoạn 2020 - 2025, một trong những nhiệm vụ trọng yếu của Viện Công nghiệp Thực phẩm là hỗ trợ Bộ Công Thương trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn, quy chuẩn và xử lý sự cố.

Hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ tại Viện Công nghiệp Thực phẩm. Ảnh: Quỳnh Nga

Viện đã phối hợp rà soát hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật áp dụng cho các sản phẩm do Bộ Công Thương quản lý, đồng thời tham gia xây dựng các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các nhóm ngành hàng quan trọng như sữa, dầu ăn, đồ uống có cồn, bột và tinh bột.

Cùng với đó, Viện duy trì Trung tâm phân tích và giám định thực phẩm quốc gia hoạt động theo tiêu chuẩn ISO, IEC 17025, thực hiện phân tích, giám định phục vụ doanh nghiệp và cơ quan quản lý, đồng thời tham gia hỗ trợ chuyên môn trong các tình huống phát sinh liên quan đến xuất khẩu. Qua đó, Viện góp phần cung cấp bằng chứng, nâng tính minh bạch và khả năng phản ứng chính sách trước yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế.

Giai đoạn 2020-2025, Viện triển khai 38 nhiệm vụ khoa học công nghệ gồm 5 đề tài cấp Nhà nước, 18 nhiệm vụ cấp Bộ Công Thương, 10 đề tài cấp tỉnh và nhánh, 5 nhiệm vụ hợp tác quốc tế. Viện đã đăng ký 2 giải pháp hữu ích và công bố 111 bài báo khoa học, trong đó có 20 bài báo quốc tế.

Về hạ tầng công nghiệp sinh học, Viện là một đơn vị quan trọng trong mạng lưới bảo tồn gen, đang lưu giữ hơn 1.700 chủng vi sinh vật công nghiệp. Đây là tài sản khoa học chiến lược, vừa phục vụ sản xuất giống cho doanh nghiệp, vừa làm chủng tham chiếu cho các phòng xét nghiệm và phục vụ nghiên cứu, đào tạo.

Trong các hướng công nghệ cao, Viện có thế mạnh trong nghiên cứu enzyme tái tổ hợp và nano, selen, đồng thời duy trì hợp tác dài hạn với các đối tác quốc tế. Hợp tác quốc tế không chỉ mở rộng năng lực nghiên cứu, mà còn giúp Viện tiếp cận chuẩn mực quản trị dự án, chuẩn hóa quy trình, và từng bước tiếp nhận đặt hàng nghiên cứu từ doanh nghiệp nước ngoài.

Mặt khác, Viện đã phát triển và chuyển giao một số công nghệ chế biến và công nghệ sinh học như tinh bột biến tính, maltooligosaccharide từ tinh bột, chiết xuất hợp chất thiên nhiên phục vụ thực phẩm chức năng, sản xuất giống vi sinh cho công nghiệp lên men và bảo vệ sức khỏe, công nghệ lên men một số sản phẩm truyền thống ở quy mô công nghiệp.

Định hướng triển khai công nghệ sạch thông qua enzyme, vi sinh và chiết xuất tự nhiên giúp doanh nghiệp giảm tiêu hao năng lượng, giảm phát thải và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Trong bối cảnh yêu cầu giảm phát thải ngày càng cụ thể hóa trong chuỗi cung ứng, nhóm giải pháp công nghệ này là một hướng đi có ý nghĩa chiến lược, phù hợp với khả năng làm chủ của Việt Nam và phù hợp với mục tiêu nâng cao giá trị gia tăng từ nguyên liệu trong nước.

Xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh

Viện Công nghiệp Thực phẩm xác định tầm nhìn đến năm 2030 là trở thành trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực công nghiệp thực phẩm và công nghiệp sinh học, đóng vai trò hạ tầng kỹ thuật nòng cốt của Bộ Công Thương về tiêu chuẩn, quy chuẩn, giám định và an toàn thực phẩm.

Định hướng đến năm 2045 là phát triển Viện theo mô hình viện, trung tâm quốc gia có năng lực cạnh tranh khu vực, làm chủ một số công nghệ chiến lược, đồng hành với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên khoa học công nghệ. Để bảo đảm tính khả thi, Viện xây dựng định hướng theo nguyên tắc lựa chọn ưu tiên: Tập trung vào các công nghệ lõi có nhu cầu thị trường rõ, gắn với lợi thế nguyên liệu trong nước, có khả năng nội địa hóa và có tác động trực tiếp tới năng suất, chất lượng, an toàn và phát thải trong ngành.

Viện Công nghiệp Thực phẩm xác định tầm nhìn đến năm 2030 trở thành trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ hàng đầu Việt Nam. Ảnh: Quỳnh Nga

Trước mắt, trong giai đoạn 2026 - 2027, Viện ưu tiên chuẩn bị và triển khai hạ tầng trình diễn và chuyển giao công nghệ, đồng thời xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh gắn với các chương trình công nghệ lõi.

Giai đoạn 2028 - 2030, Viện tập trung mở rộng quy mô chuyển giao, hình thành các gói công nghệ có khả năng nhân rộng theo chuỗi ngành hàng, đồng thời tăng cường nhiệm vụ hỗ trợ công tác xây dựng chính sách và quản lý nhà nước.

Đối với các đề án công nghệ có tính chiến lược, Viện định hướng tập trung vào công nghiệp protein thay thế từ thực vật và vi sinh vật, phát triển chế biến sau gạo và các sản phẩm giá trị cao từ gạo, phát triển các sản phẩm từ phụ phẩm nông nghiệp theo hướng tuần hoàn, và nâng cấp năng lực kiểm nghiệm, giám định và cảnh báo rủi ro an toàn thực phẩm.

Ngoài ra, Viện tiếp tục thực hiện tinh gọn bộ máy theo chủ trương chung của Nhà nước, đồng thời bảo đảm duy trì các đơn vị nghiên cứu chuyên sâu để đáp ứng yêu cầu công nghệ ngày càng cao. Trọng tâm là đổi mới cơ chế đánh giá theo kết quả, tăng vai trò nhóm nghiên cứu mạnh, tăng hợp tác liên ngành và nâng năng lực quản trị dự án.

Song song với đó là chính sách phát triển nhân lực: Thu hút cán bộ giỏi, phát triển đội ngũ chuyên gia đầu ngành, tăng đào tạo quốc tế và đào tạo theo đặt hàng của doanh nghiệp. Đây là điều kiện cần để Viện nâng năng lực làm chủ công nghệ chiến lược và thực hiện tốt vai trò tư vấn, tham mưu cho Bộ.

Hình thành cơ chế đặt hàng nhiệm vụ khoa học

Viện Công nghiệp Thực phẩm đề nghị Bộ Công Thương thiết lập cơ chế đặt hàng thường xuyên đối với các nhiệm vụ xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn, đánh giá rủi ro và cơ sở dữ liệu ngành thực phẩm. Cơ chế đặt hàng cần gắn với mục tiêu quản lý nhà nước, có lộ trình rõ và phân công trách nhiệm cụ thể, nhằm bảo đảm tính liên tục và tích lũy dữ liệu.

Đồng thời, ưu tiên phê duyệt và bố trí nguồn lực đầu tư cho hạ tầng Trung tâm kết nối, trình diễn và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực công nghiệp sinh học và thực phẩm đạt tiêu chuẩn GMP. Trung tâm này đóng vai trò giảm rủi ro cho doanh nghiệp khi tiếp nhận công nghệ, rút ngắn thời gian thương mại hóa, và tạo nền tảng để hình thành các gói công nghệ hoàn chỉnh.

Viện cũng đề nghị Bộ Công Thương phối hợp với các cơ quan liên quan hoàn thiện cơ chế tự chủ về tổ chức, nhân sự và tài chính cho các đơn vị nghiên cứu công lập trực thuộc Bộ theo hướng trao quyền đi kèm trách nhiệm giải trình. Cơ chế này nhằm tạo động lực thu hút nhân lực chất lượng cao, tăng khả năng huy động nguồn lực xã hội, đồng thời bảo đảm hiệu quả sử dụng ngân sách và tài sản công.

Ngoài ra, đề nghị Bộ chỉ đạo xây dựng nền tảng dữ liệu ngành thực phẩm theo hướng liên thông giữa tiêu chuẩn, quy chuẩn, kết quả kiểm nghiệm và thông tin thị trường. 

Trong bối cảnh yêu cầu phát triển nhanh và bền vững, công nghiệp chế biến thực phẩm cần một nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đủ mạnh để nâng cao giá trị gia tăng, tự chủ công nghệ, bảo đảm an toàn thực phẩm và giảm phát thải. Viện Công nghiệp Thực phẩm xác định rõ trách nhiệm của một viện nghiên cứu đầu ngành trực thuộc Bộ Công Thương, cam kết đổi mới tổ chức, nâng chất lượng nghiên cứu và chuyển giao, chủ động tham gia tham mưu chính sách, xây dựng hạ tầng đổi mới sáng tạo và đồng hành cùng doanh nghiệp.

Quỳnh Nga