Ông Lê Công Năng – Chủ tịch Diễn đàn doanh nhân Việt Nam đã có cuộc chia sẻ về cơ hội định vị thương hiệu du lịch, điểm đến của Việt Nam từ “cú huých” visa.
Chính sách visa thông thoáng tạo thuận lợi cho du khách đến Việt Nam. Ảnh: TTXVN
- Thời gian qua, chính sách visa của Việt Nam đang liên tục được cải thiện. Ông nhìn nhận thế nào về ý nghĩa của bước tiến này?
Ông Lê Công Năng: Như chúng ta biết, mới đây Chính phủ ban hành Nghị quyết số 229/NQ-CP miễn thị thực 45 ngày cho công dân 12 quốc gia châu Âu, áp dụng từ ngày 15/8/2025 đến 14/8/2028, cùng Nghị định 221/2025/NĐ-CP miễn thị thực có thời hạn cho một số đối tượng đặc biệt. Những quy định mới này được coi là một "cú huých" rất lớn đối với việc thu hút khách du lịch, nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, tôi đánh giá đây là một bước đi chiến lược, thể hiện tầm nhìn dài hạn của Chính phủ trong việc đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Trong đó, việc mở rộng miễn thị thực cho công dân 12 nước châu Âu là một thông điệp rõ ràng rằng Việt Nam sẵn sàng mở cửa, chào đón và tạo điều kiện tối đa cho du khách quốc tế, nhà đầu tư. Đây đều là những thị trường có tỷ lệ khách lưu trú dài ngày, chi tiêu cao, yêu thích trải nghiệm văn hóa, lịch sử, ẩm thực và khám phá thiên nhiên.
Điểm đặc biệt là với thời hạn lưu trú 45 ngày dài hơn nhiều so với các chính sách trước đây, giúp du khách có thể khám phá Việt Nam theo chiều sâu, kết hợp nhiều điểm đến từ Bắc vào Nam. Điều này sẽ khuyến khích các doanh nghiệp lữ hành thiết kế những hành trình dài ngày, đa dạng hoạt động, từ di sản văn hóa Hà Nội, Vịnh Hạ Long, cố đô Huế, phố cổ Hội An, đến các thiên đường biển đảo như Phú Quốc, Nha Trang, Côn Đảo.
Bên cạnh đó, việc miễn thị thực có thời hạn cho các đối tượng đặc biệt như học giả, chuyên gia, nhà khoa học, nhân lực công nghệ cao, nhà đầu tư hay nhân vật văn hóa, thể thao, du lịch có ảnh hưởng tích cực sẽ không chỉ thúc đẩy du lịch mà còn tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút dòng nhân lực và dòng vốn chất lượng cao. Việc này giúp Việt Nam gia tăng năng lực tổ chức sự kiện quốc tế, đồng thời nâng cao hình ảnh quốc gia và mở ra nhiều cơ hội hợp tác kinh doanh.
- Theo ông, chính sách visa cởi mở sẽ gia tăng sức hút, nâng hạng cạnh tranh du lịch, đầu tư của Việt Nam như thế nào?
Ông Lê Công Năng: Thực tế đã chứng minh chính sách visa có tác động trực tiếp đến lượng khách quốc tế. Sau khi mở rộng e-visa 90 ngày và gia hạn tạm trú cho khách miễn thị thực, năm 2024 Việt Nam đón hơn 17,5 triệu khách quốc tế, tăng mạnh so với 12,6 triệu của năm 2023. Chỉ trong 7 tháng đầu năm 2025, lượng khách quốc tế đã đạt hơn 12,2 triệu lượt, tăng hơn 22% so với cùng kỳ. Đây là mức tăng trưởng đáng kể, trong đó phần lớn đến từ những thị trường được hưởng chính sách visa thuận lợi.
Ông Lê Công Năng - Chủ tịch Diễn đàn doanh nhân Việt Nam
Ngoài ra, việc miễn thị thực cho 12 nước châu Âu sẽ giúp Việt Nam cạnh tranh tốt hơn với các điểm đến trong khu vực vốn đang chạy đua thu hút khách du lịch như Thái Lan, Indonesia, Malaysia. Đặc biệt, với lợi thế về thiên nhiên, di sản, ẩm thực, cộng với chính sách thông thoáng, Việt Nam có thể trở thành điểm đến ưu tiên trong kế hoạch du lịch dài ngày của khách châu Âu.
Ở góc độ đầu tư, tôi cho rằng, chính sách visa thông thoáng giúp nhà đầu tư, chuyên gia quốc tế dễ dàng nhập cảnh và lưu trú dài hạn, rút ngắn thời gian đàm phán, khảo sát, triển khai dự án. Đặc biệt với nhóm nhà tổ chức sự kiện, nhân vật văn hóa, thể thao, nghệ thuật, chính sách này sẽ tạo điều kiện để Việt Nam thu hút các giải đấu, festival, hội chợ triển lãm quy mô lớn, qua đó kéo theo lượng lớn khách quốc tế, truyền thông và cơ hội hợp tác.
- Từ chính sách visa thông thoáng, theo ông ngành du lịch Việt Nam có những giải pháp và chiến lược gì để tận dụng tối đa lợi thế này, biến cơ hội thành động lực phát triển bền vững?
Ông Lê Công Năng: Tôi cho rằng cần có một kế hoạch hành động rõ ràng và đồng bộ. Trước hết, phải đẩy mạnh xúc tiến tại các quốc gia châu Âu vừa được miễn thị thực, xây dựng các gói sản phẩm chuyên biệt, kết hợp với hãng hàng không, nền tảng đặt phòng, đối tác lữ hành quốc tế. Những sản phẩm này cần kéo dài từ 7 đến 14 ngày, kết hợp trải nghiệm biển đảo, di sản, nghỉ dưỡng cao cấp, du lịch golf, chăm sóc sức khỏe, ẩm thực và lễ hội.
Tiếp theo là chuẩn bị năng lực đón khách dài ngày. Điều này đòi hỏi đào tạo thêm hướng dẫn viên biết ngôn ngữ châu Âu, công bố lịch sự kiện của địa phương bằng nhiều thứ tiếng, mở rộng giờ hoạt động của bảo tàng, di tích, phố đi bộ vào mùa cao điểm, cải thiện dịch vụ y tế và tiện ích công cộng để du khách yên tâm lưu trú lâu.
Ngành du lịch cũng cần tối ưu hạ tầng nhập cảnh để đón các đoàn khách từ thị trường mới và phát hành sổ tay nhập cảnh 45 ngày bằng nhiều ngôn ngữ để hỗ trợ du khách lần đầu đến Việt Nam. Về truyền thông, nên đẩy mạnh video ngắn quảng bá các khoảnh khắc, trải nghiệm đặc sắc của Việt Nam.
Ngoài ra, đây là thời điểm thích hợp để chúng ta chủ động đàm phán đưa các giải thể thao lớn, festival âm nhạc, lễ hội ẩm thực, tuần lễ thời trang vào tổ chức thường niên, vừa nâng tầm hình ảnh quốc gia vừa tạo ra nguồn khách ổn định hàng năm.
Như vậy, nếu các giải pháp này được triển khai đồng bộ, tôi tin rằng Việt Nam không chỉ tăng lượng khách mà quan trọng hơn là thu hút đúng nhóm khách, những người lưu trú lâu, chi tiêu cao, trải nghiệm sâu, qua đó để tạo ra giá trị kinh tế, văn hóa và hình ảnh bền vững cho đất nước.
- Xin cảm ơn ông !