TS. Phạm Trọng Nghĩa: Mục tiêu tăng trưởng GDP từ 10% trở lên phản ánh khát vọng và trách nhiệm của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động mạnh. Mục tiêu này đòi hỏi giải pháp tổng thể từ đổi mới mô hình phát triển đến phát huy năng lực nội sinh; từ đẩy mạnh đầu tư công đến nâng cao năng lực quản trị; từ phát triển kinh tế tư nhân đến nâng cao năng suất lao động.
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến đổi sâu sắc - từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi số, biến đổi khí hậu, đến cạnh tranh địa chính trị gay gắt, Việt Nam cần tiếp tục khẳng định vai trò là một quốc gia đang phát triển năng động, hội nhập sâu rộng, đồng thời bảo vệ vững chắc lợi ích quốc gia - dân tộc.
Việt Nam nổi lên như một điểm sáng về phát triển kinh tế - xã hội
Thực tế, trong bối cảnh quốc tế đầy biến động, Việt Nam nổi lên như một điểm sáng. Việt Nam duy trì vị thế là một quốc gia ổn định chính trị ở khu vực Đông Nam Á. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam được đánh giá cao về tính thống nhất và khả năng lãnh đạo dài hạn.
Theo Chandler Government Index (CGGI) 2025, Việt Nam xếp hạng 30 toàn cầu về “Lãnh đạo và tầm nhìn”, tăng mạnh nhờ hiệu suất xuất sắc ở các chỉ số như chiến lược quốc gia và khả năng dự báo rủi ro.
Bên cạnh đó, Việt Nam nổi bật với đường lối ngoại giao đa phương, độc lập, tự chủ, linh hoạt và kiên cường, giúp nước ta trở thành “cầu nối” giữa các cường quốc. Về ảnh hưởng ngoại giao, Việt Nam là đối tác chiến lược toàn diện với 14 nước lớn (Mỹ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, EU, Anh).
Vị trí địa chiến lược của Việt Nam ở Đông Nam Á, với bờ biển dài 3.260 km và nằm trên tuyến hàng hải huyết mạch, khiến chúng ta trở thành trung tâm kết nối giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Với GDP dự kiến đạt 510 tỷ USD năm 2025, tăng 1,47 lần so với 2020, Việt Nam đã vươn từ hạng 37 lên hạng 32 thế giới về quy mô kinh tế. GDP bình quân đầu người đạt khoảng 5.000 USD, gia nhập nhóm thu nhập trung bình cao.
Xuất khẩu đạt thặng dư liên tục, với kim ngạch vượt 400 tỷ USD năm 2024. Việt Nam là thành viên của 17 FTA, bao gồm CPTPP, EVFTA, RCEP - thành viên các FTA này chiếm hơn 60% GDP toàn cầu.
Mặt khác, Việt Nam thuộc nhóm “phát triển con người cao” theo Chỉ số phát triển con người (HDI) của UNDP 2025, với giá trị 0,766 (xếp hạng 93/193 quốc gia), tăng 53,5% so với 1990.
Báo cáo của Liên hợp quốc năm 2024 cũng chỉ ra, Việt Nam xếp thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á (sau Thái Lan) với chỉ số SDG Index đạt 73,4/100 điểm, tăng tới 27% so với năm 2015. Nhiều lĩnh vực đạt tiến bộ rõ rệt như giảm nghèo, giáo dục, nước sạch, giảm bất bình đẳng, phát triển hạ tầng và mở rộng đối tác quốc tế, đặc biệt, giảm nghèo được coi là thành công ấn tượng nhất.
SDG Index (hay chỉ số SDG) là một công cụ đánh giá toàn cầu được sử dụng để đo lường và xếp hạng tiến trình của các quốc gia trong việc thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) do Liên hợp quốc đề ra. SDG Index được tính toán dựa trên sự tổng hợp của hàng trăm chỉ số (indicators) chính thức và không chính thức, phản ánh toàn diện ba trụ cột của phát triển bền vững: Kinh tế, xã hội và môi trường. Mỗi quốc gia được chấm điểm từ 0 đến 100. Điểm càng cao (gần 100) cho thấy quốc gia đó càng gần đạt được mục tiêu toàn cầu.
Những kết quả trên là nền tảng quan trọng để Việt Nam tiếp tục gặt hái được những thành công trong phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng 2 con số trở lên.
TS. Phạm Trọng Nghĩa: Việt Nam vẫn phụ thuộc vào FDI (chiếm 70% xuất khẩu), năng suất lao động tăngnhưng còn thấp chỉ bằng 11,6% Singapore và rủi ro từ biến đổi khí hậu. Đăc biệt, biến đổi khí hậu và già hóa dân số nhanh sẽ là các tác nhân làm giảm tăng trưởng của Việt Nam.
Nếu không có các giải pháp thích ứng hiệu quả, nhiệt độ tăng 1,0℃ và 1,5℃ có thể gây tổn thất lần lượt khoảng 1,8% GDP và 4,5% GDP; thiệt hại kinh tế khoảng 4,3 tỷ USD trong 10 năm tới. Nếu nước biển dâng và nhiệt độ tăng lên theo kịch bản xấu nhất, ước tính đến năm 2050, Việt Nam có khoảng 3,1 triệu người phải di cư nội địa.
Cùng với đó, cạnh tranh công nghệ và lao động gay gắt, nhất là từ Trung Quốc và Ấn Độ đòi hỏi Việt Nam phải chuyển đổi số nhanh chóng, với mục tiêu kinh tế số chiếm 30% GDP năm 2030.
Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam cần định vị mình là “cầu nối” giữa các cường quốc, tận dụng “thế nước” để trở thành quốc gia trung tâm trong chuỗi cung ứng toàn cầu, đồng thời, bảo vệ vững chắc chủ quyền và lợi ích dân tộc. Điều này đòi hỏi phải tích hợp góc nhìn toàn cầu, các chiến lược và mục tiêu cũng như mô hình phát triển không chỉ xuất phát từ nguồn lực nội tại mà còn phải dựa trên căn cứ dự báo xu hướng đến năm 2045 - khi Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
TS. Phạm Trọng Nghĩa: Trong bối cảnh kỷ nguyên mới, việc xây dựng Việt Nam tự chủ, tự cường là sứ mệnh lịch sử, nhằm thực hiện tầm nhìn trở thành nước công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao năm 2030 và nước phát triển, thu nhập cao năm 2045. Mục tiêu “tự chủ chiến lược, tự cường” cũng được xác định trong chủ đề của Đại hội lần thứ XIV của Đảng.
Tự chủ, tự cường không phải là tự cung tự cấp hay cô lập, mà là xây dựng năng lực nội sinh, làm chủ công nghệ, nâng cao khả năng chống chịu, đồng thời hội nhập sâu rộng để tận dụng cơ hội toàn cầu.
Để xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự cường, tôi đề nghị quan tâm 5 vấn đề:
Thứ nhất, kiểm soát có chiến lược độ mở của nền kinh tế. Nước ta là quốc gia có quy mô kinh tế nhỏ, độ mở cao. Thống kê của WB cho thấy, Việt Nam là một trong những quốc gia có độ mở về kinh tế tăng nhanh và lớn nhất thế giới. Tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu trên GPD tăng liên tục. Việt Nam là một trong 10 quốc gia có độ mở của nền kinh tế cao nhất trên thế giới, năm 2025 ước kim ngạch xuất nhập khẩu 882 tỷ USD trong khi GDP dự kiến khoảng 510 tỷ USD thì độ mở của nền kinh tế là 172%.
Độ mở cao là một lợi thế, nhưng nền kinh tế dễ bị tổn thương và rất nhạy cảm với các biến động từ bên ngoài. Nếu không có những giải pháp chính sách tốt, sẽ đem đến nhiều hệ lụy, như nền kinh tế trở nên dễ bị tổn thương, nhạy cảm với các biến động từ bên ngoài; xuất nhập khẩu nhiều nhưng chủ yếu là hàng hóa thâm dụng lao động, giá trị gia tăng không cao; tăng trưởng cao nhưng vẫn ở vị trí cuối trong chuỗi giá trị toàn cầu; nguy cơ là công xưởng gia công, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình là hiện hữu.
Vì vậy, lợi thế này phải đi kèm với kiểm soát có chiến lược - đây là "chìa khóa" cho sự phát triển bền vững và thịnh vượng. Do đó, đề nghị cần kiểm soát có chiến lược độ mở của nền kinh tế.
Doanh nghiệp Việt là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự cường
Thứ hai, phát triển chuỗi cung ứng nội địa để tăng cường tính tự chủ, tự cường của nền kinh tế. Doanh nghiệp Việt là lực lượng nòng cốt trong việc xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự cường. Việc tham gia các dự án công để hưởng thụ nguồn lực và chính sách hỗ trợ của Nhà nước là giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao năng lực doanh nghiệp trong nước.
Theo đó, đề nghị bổ sung nội dung xem xét ưu tiên doanh nghiệp trong nước được thực hiện các dự án đầu công lớn, nhất là các dự án dự án về hạ tầng giao thông, hạ tầng công nghệ, hạ tầng năng lượng.
Thứ ba, tối ưu hóa thị trường hơn 100 triệu dân của Việt Nam. Thị trường nội địa phải được xem là trụ cột tăng trưởng của nền kinh tế. Tôi đề nghị đẩy mạnh phong trào "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam". Điều này không chỉ giúp nền kinh tế giảm phụ thuộc, mà còn mở ra cơ hội cho doanh nghiệp Việt từng bước làm chủ công nghệ, làm chủ thị trường và gia tăng giá trị.
Thứ tư, chú trọng toàn dụng lao động để phát huy lợi thế nguồn nhân lực trong thời kỳ dân số vàng sắp kết thúc - đây là tài sản quý giá nhất của quốc gia. Việc đạt được toàn dụng lao động đòi hỏi sự kết hợp đồng bộ của cả chính sách vĩ mô (tổng cầu) và chính sách vi mô (cung và chất lượng lao động).
Theo Tổng cục thống kê, hiện nay, cả nước có 1,6 triệu thanh niên 15-24 tuổi không học hành, không đi làm và không tham gia đào tạo, chiếm 11,5% tổng số thanh niên Việt Nam. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên độ tuổi 15-24 trong quý III/2025 là trên 9%, cao hơn so với ba tháng trước lẫn cùng kỳ năm 2024. Đây là lãng phí lớn, cần được đánh giá kỹ để có giải pháp tổng thể.
Thứ năm, đề nghị xác định trong mô hình phát triển mới yêu cầu phải thu hẹp khoảng cách chênh lệch vùng miền qua các chính sách đầu tư phát triển. Đồng thời, xác định nhiệm vụ khẩn trương tổng kết các cơ chế đặc thù để đề xuất hoàn thiện pháp luật và xây dựng cơ chế đặc thù mới phù hợp với không gian phát triển mới sau khi sáp nhập các tỉnh.
Xin cảm ơn ông!