Phát triển một số ngành công nghiệp chiến lược
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV, ngày 7/11, Quốc hội nghe Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế và Tài chính về việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030.
Quốc hội nghe Tờ trình của Chính phủ về việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030.
Chú trọng tới đột phá phát triển các ngành, lĩnh vực, đồng thời ứng phó với những thay đổi lớn trong bối cảnh quốc tế, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng nêu rõ, những nội dung điều chỉnh chủ yếu tại Tờ trình của Chính phủ về việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030.
Trong đó, đã điều chỉnh định hướng phát triển và phân bố không gian các ngành kinh tế quan trọng, bổ sung một số nội hàm trong định hướng phát triển.
Cụ thể, về công nghiệp: Nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh một số ngành công nghiệp nền tảng như năng lượng, cơ khí chế tạo, luyện kim, vật liệu mới, hóa chất. Tập trung phát triển một số ngành công nghiệp chiến lược, mũi nhọn như công nghiệp điện tử, công nghiệp công nghệ số, công nghiệp ô tô, công nghiệp đường sắt, công nghiệp đóng tàu, công nghiệp chế biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp…
Ưu tiên phát triển, từng bước làm chủ công nghệ trong một số ngành công nghiệp mới nổi như công nghiệp chip bán dẫn, công nghiệp rô-bốt và tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, vật liệu tiên tiến, vật liệu phục vụ công nghiệp cơ khí chế tạo, công nghiệp sinh học, công nghiệp môi trường, năng lượng tái tạo, năng lượng mới.
Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh tự chủ, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, gắn kết chặt chẽ và trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, có sức cạnh tranh quốc tế. Hình thành và phát triển nhanh một số cụm liên kết ngành công nghiệp chuyên môn hóa và các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiệu quả cao phù hợp với lợi thế của mỗi vùng, địa phương.
Tập trung phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất theo hướng hiện đại; khu công nghiệp áp dụng chuyển đổi số vận hành cơ sở hạ tầng, dịch vụ thông minh, khu công nghiệp sinh thái, khu công nghiệp xanh; khuyến khích phát triển các khu công nghiệp chuyên ngành.
Về dịch vụ: Xây dựng Việt Nam trở thành thị trường thương mại điện tử lớn thứ hai trong khu vực Đông Nam Á; phát triển đồng bộ hạ tầng số và hệ thống logistics hỗ trợ thương mại điện tử. Phát triển các trung tâm tài chính, khu thương mại tự do đủ sức cạnh tranh khu vực và quốc tế. Thúc đẩy phát triển các sàn giao dịch hàng hóa, giao dịch tài sản thực và tài sản mã hóa. Phấn đấu đến năm 2030, thu hút 45 - 50 triệu lượt khách du lịch quốc tế; tổng thu du lịch khoảng 13 - 14% GDP.
Về nông, lâm nghiệp và thủy sản: Phát triển mạnh kinh tế nông nghiệp số, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn; đẩy mạnh áp dụng công nghệ, quy trình sản xuất tiên tiến để phát triển các vùng, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Bố trí không gian phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp gắn với hạ tầng đồng bộ, tập trung vào hạ tầng thủy lợi, giao thông, logistics và chế biến nông sản, các trung tâm đầu mối về cung cấp vật tư đầu vào, các khu nông nghiệp công nghệ cao, chuyển đổi số để nâng cao hiệu quả phát triển tổng hợp, tăng cường liên kết giữa sản xuất, lưu thông, tiêu thụ sản phẩm.
Xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo nông nghiệp vùng, đóng vai trò là hạt nhân nghiên cứu - phát triển giống cây trồng, vật nuôi chất lượng cao; chuyển giao công nghệ số, công nghệ chế biến và kết nối thị trường. Đẩy mạnh nuôi biển công nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số và tự động hóa.
Phát triển điện hạt nhân theo các quy mô linh hoạt
Bên cạnh đó, điều chỉnh định hướng phát triển 4 ngành hạ tầng kỹ thuật. Về giao thông: Đẩy nhanh tiến trình đầu tư một số tuyến cao tốc, đường ven biển, quốc lộ quan trọng đáp ứng yêu cầu phát triển các hành lang kinh tế, nhu cầu kết nối vùng, liên vùng, kết nối thông suốt trên địa bàn đơn vị hành chính mới sau sáp nhập, kết nối hạ tầng cửa ngõ (cảng biển, cảng hàng không quốc tế) để mở ra không gian phát triển mới.
Xây dựng một số đoạn đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, đường sắt kết nối quốc tế, đường sắt đô thị tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, đường sắt kết nối cảng hàng không quốc tế Long Thành. Đầu tư hoàn chỉnh các cảng biển cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện và Cái Mép - Thị Vải; xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh), cảng Liên Chiểu (Đà Nẵng), Nam Đồ Sơn (Hải Phòng), Hòn Khoai (Cà Mau), Vân Phong (Khánh Hòa), Trần Đề (Cần Thơ)...
Về năng lượng: Phát triển hạ tầng năng lượng đáp ứng yêu cầu bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, cung cấp đầy đủ năng lượng ổn định, có chất lượng cao cho tăng trưởng kinh tế trên 10%/năm trong giai đoạn tới.
Đồng thời, đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển các ngành kinh tế mới và yêu cầu chuyển đổi sang sử dụng năng lượng sạch trong các lĩnh vực. Ưu tiên khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch. Phát triển năng lượng hydrogen, ammoniac; nghiên cứu, phát triển năng lượng địa nhiệt, sóng biển, thủy triều, hải lưu…
Triển khai các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1, 2. Phát triển điện hạt nhân theo các quy mô linh hoạt, các nhà máy điện hạt nhân lắp ráp modul nhỏ. Hình thành Trung tâm công nghiệp năng lượng quốc gia tích hợp khí, khí hóa lỏng, điện, lọc, hóa dầu, năng lượng tái tạo tại các địa phương có lợi thế.
Về hạ tầng thông tin và truyền thông: Phát triển hạ tầng viễn thông, Internet đáp ứng yêu cầu dự phòng, kết nối, an toàn, bền vững, tập trung phát triển hệ thống truyền dẫn dữ liệu qua vệ tinh, mạng cáp quang băng thông rộng tốc độ cao phủ sóng toàn quốc, mạng thông tin di động 5G, 6G và các thế hệ tiếp theo; phát triển thêm các tuyến cáp quang biển và trên đất liền. Phát triển hạ tầng vật lý số, hạ tầng tiện ích số; tích hợp cảm biến, ứng dụng công nghệ số vào hạ tầng thiết yếu.
Đầu tư, xây dựng trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây; thu hút doanh nghiệp nước ngoài đặt trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây tại Việt Nam. Hoàn thành và phát huy hiệu quả Trung tâm dữ liệu quốc gia; đầu tư xây dựng các trung tâm dữ liệu vùng. Hình thành các trung tâm dữ liệu hỗ trợ các ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Phát triển nhanh, bền vững ngành công nghiệp công nghệ số.
Về hạ tầng thủy lợi và phòng, chống, thiên tai: Phát triển hệ thống thủy lợi theo hướng đa mục tiêu, bảo đảm tưới, tiêu, cấp, thoát nước cho nông nghiệp, dân sinh, các ngành kinh tế, đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh các tình huống thiên tai cực đoan diễn ra với cường độ mạnh và tần suất cao hơn.
Xây dựng các hồ chứa lớn tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên; nghiên cứu, xây dựng hệ thống giữ nước cho Đồng bằng sông Cửu Long; triển khai chương trình phòng, chống lũ lụt, sạt lở vùng trung du và miền núi.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, Ủy ban cơ bản tán thành việc bổ sung, điều chỉnh các nội dung của Quy hoạch tổng thể quốc gia nhằm phù hợp với bối cảnh mới sau sắp xếp đơn vị hành chính các cấp; phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026 - 2030 và các năm tiếp theo; thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, phát triển các ngành, lĩnh vực, vùng, địa phương.
Việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030 bổ sung một số nội hàm trong quan điểm phát triển, nhất là chủ động kiến tạo đột phá phát triển, lấy “phát triển để duy trì ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển”, chú trọng khai thác hiệu quả không gian phát triển mới theo tinh thần của dự thảo Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế xã hội đã được Hội nghị Trung ương thông qua.